Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Đại tư
Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Đại tướng Lê Đức Anh (1/12/1920 – 1/12/2020): Người
Cộng sản trọn đời cống hiến cho sự nghiệp cách mạng
BT- Sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan, phải chứng kiến người dân
nô lệ mất nước sống cơ cực dưới chế độ thực dân, phong kiến, đã hun đúc trong
đồng chí Lê Đức Anh lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh cách mạng. Với ý chí và
nghị lực mạnh mẽ đã thôi thúc đồng chí hăng hái tham gia hoạt động cách mạng và
đi suốt các cuộc chiến tranh của dân tộc, trở thành người cộng sản kiên cường,
người chỉ huy tài ba, người lãnh đạo xuất sắc, giản dị cống hiến trọn đời cho Tổ
quốc và dân tộc Việt Nam.
 |
Nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh. |
Trở thành người
Cộng sản…
Đồng chí Lê Đức Anh (bí danh Nguyễn
Phú Hòa, còn gọi là Chín Hòa, Sáu Nam), sinh ngày 1/12/1920 tại làng Trường Hà,
huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế; quê quán xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh
Thừa Thiên - Huế. Năm 16 tuổi, đồng chí được giác ngộ cách mạng, năm 18 tuổi,
đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt
Nam). Tháng 10/1939, thực dân Pháp tiến hành khủng bố ở Thừa Thiên, hầu hết các
đảng viên huyện Phú Vang bị bắt. Để bảo toàn lực lượng theo chủ trương của tổ
chức cộng sản, đồng chí đã bí mật rời quê hương vào Đà Lạt hoạt động và sớm tìm
đến với tổ chức cách mạng. Những năm đầu hoạt động cách mạng sôi nổi với bao khó
khăn, thử thách, đã rèn luyện đồng chí Lê Đức Anh trở thành người chiến sĩ cộng
sản kiên cường, để suốt đời chiến đấu hy sinh vì lý tưởng cách mạng của Đảng, vì
hạnh phúc của nhân dân.
Người chỉ huy quân
sự tài ba…
Trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược, đồng chí Lê Đức Anh tham gia thành lập, phát triển và chỉ huy
các đội võ trang, hoạt động ở vùng Lộc Ninh, Hớn Quản, Bến Cát. Thấy được tố
chất và khả năng tham mưu quân sự của đồng chí Lê Đức Anh, Xứ ủy Nam Kỳ điều
đồng chí về làm Tham mưu trưởng Khu 7 - một địa bàn trọng điểm, nơi diễn ra
những trận đánh quyết liệt giữa quân và dân ta với quân đội Pháp và tay sai. Từ
đây, đồng chí chuyển từ một cán bộ chính trị sang làm cán bộ quân sự, chuyên lo
xây dựng lực lượng, tổ chức chiến dịch, xây dựng và phát triển chiến thuật cho
bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương. Cuối năm 1952, đầu năm 1953,
đồng chí Lê Đức Anh vinh dự cùng đồng chí Lê Duẩn ra Chiến khu Việt Bắc để báo
cáo với Bác Hồ và Bộ Tổng Tư lệnh về kinh nghiệm chiến đấu. Nghe đồng chí Lê Đức
Anh báo cáo, Bác Hồ rất vui, khen ngợi bộ đội và nhân dân Nam bộ đánh giặc giỏi.
Sau khi tham dự lớp học chính trị do Trung ương tổ chức tại Chiến khu Việt Bắc,
đồng chí Lê Đức Anh lên đường trở về miền Nam tiếp tục chiến đấu.
Trong những năm đầu của cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, đồng chí Lê Đức Anh công tác ở Bộ Tổng Tham mưu với
cương vị Cục phó Cục Tác chiến, Cục trưởng Cục Quân lực, rồi Phó Tổng Tham mưu
trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là thời gian đồng chí được tìm hiểu, học
hỏi về các ngành, các công việc của công tác tham mưu chiến lược, nâng cao hiểu
biết thực tế và phương pháp luận khoa học khi tiến hành công tác tham mưu quân
sự; đồng thời tiếp tục được bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị. Cuối
tháng 12/1963, đồng chí Lê Đức Anh bí mật lên đường vào chiến trường miền Nam
trên con tàu “Không số”. Những ngày đầu trở lại chiến trường miền Nam, tại Bộ
Chỉ huy Miền, với cương vị Tham mưu trưởng Quân Giải phóng miền Nam, đồng chí Lê
Đức Anh đã có nhiều đề xuất quan trọng và trực tiếp soạn thảo, triển khai kế
hoạch xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy Xuân Mậu Thân 1968, đồng chí được phân công chỉ huy bộ đội ở hướng Tây Sài
Gòn, từ Long An đánh vào Tổng nha Cảnh sát và Cảnh sát Đô thành. Quá trình diễn
ra cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, trên cơ sở phân tích, đánh giá thấu đáo tình
hình, đồng chí đã có những đề xuất quan trọng về chuyển hướng tiến công. Tổng
tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã có ý nghĩa quan trọng, làm phá sản
chiến lược “chiến tranh cục bộ”, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh.
Đầu năm 1969, đồng chí Lê Đức Anh
được cấp trên giao nhiệm vụ Tư lệnh Quân khu 9. Dưới sự lãnh đạo của Khu ủy, sự
chỉ huy trực tiếp, quyết đoán và dám chịu trách nhiệm của Tư lệnh Lê Đức Anh,
quân và dân Quân khu 9 đã chiến đấu ngoan cường, bẻ gãy các cuộc hành quân lấn
chiếm quy mô cấp quân đoàn của địch đánh vào Chương Thiện, lần lượt đánh bại 75
tiểu đoàn cùng với kế hoạch “Tràn ngập lãnh thổ” của chúng. Với những thành tích
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giai đoạn 1964 - 1974, đồng chí Lê Đức
Anh được Chủ tịch nước ký quyết định phong quân hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung
tướng.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch
sử, đồng chí Lê Đức Anh đảm nhiệm Phó Tư lệnh Chiến dịch kiêm Tư lệnh cánh quân
tiến công trên hướng Tây - Tây Nam đánh vào Sài Gòn. Với tài thao lược và kinh
nghiệm trận mạc được tích lũy trong suốt hai cuộc chiến tranh giải phóng, đồng
chí Lê Đức Anh đã tổ chức lực lượng, xác định các hướng, mũi tiến công, giao
nhiệm vụ, hiệp đồng cụ thể, rõ ràng cho từng bộ phận; chỉ huy cánh quân đánh
chiếm các mục tiêu theo kế hoạch tác chiến, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được
giao, góp phần làm nên chiến thắng oanh liệt của dân tộc.
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải
phóng, đất nước thống nhất, tháng 5/1976, đồng chí Lê Đức Anh được phân công về
làm Tư lệnh Quân khu 9. Trên cương vị được giao, đồng chí đã chỉ đạo Quân khu
tập trung giải quyết cùng lúc nhiều việc lớn, nhanh chóng tạo được sự ổn định,
bảo đảm cho đời sống và các hoạt động trong toàn Quân khu đi vào nền nếp khi đất
nước chuyển giai đoạn từ chiến tranh sang hòa bình. Khi tập đoàn phản động Pôn
Pốt gây chiến tranh xâm lược toàn tuyến biên giới Tây Nam, đồng chí Lê Đức Anh
được điều động về làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, kiêm Chỉ huy trưởng Tiền
phương Bộ Quốc phòng ở Mặt trận Tây Nam. Thực hiện chủ trương của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, đồng chí Lê Đức Anh đã tích
cực chỉ đạo Quân khu 7 giúp bạn xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng ngay trên
địa bàn Quân khu. Trong những năm làm nhiệm vụ quốc tế trên đất bạn Campuchia -
một nhiệm vụ vô cùng khó khăn, phức tạp, mang tính đặc thù, với biết bao gian
nan thử thách, đồng chí Lê Đức Anh luôn quan tâm giáo dục, động viên bộ đội và
chuyên gia vượt qua khó khăn, gian khổ, hy sinh để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
quốc tế cao cả. Với thành tích xuất sắc trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây
Nam và cùng quân dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng, tái thiết đất nước,
đồng chí Lê Đức Anh được thăng quân hàm từ Trung tướng lên Thượng tướng tháng
1/1980 và lên Đại tướng tháng 12/1984.
Ngày 16/2/1987, Bộ Chính trị và Hội
đồng Nhà nước đã quyết định bổ nhiệm đồng chí Lê Đức Anh làm Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng. Ngay sau khi nhận chức, đồng chí đã có những đề xuất xác đáng với Bộ
Chính trị về giải quyết vấn đề biên giới, và từ vấn đề biên giới để định ra
chiến lược và sách lược của công tác đối ngoại. Đồng chí Lê Đức Anh đã có nhiều
đóng góp quan trọng trong xúc tiến bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Trung
Quốc, khép lại nhiều năm đối đầu căng thẳng. Đồng chí đã đề xuất với Đảng, Nhà
nước và trực tiếp chỉ đạo giải quyết nhiều vấn đề lớn, quan trọng về quân sự,
quốc phòng, bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Người lãnh đạo
xuất sắc, giản dị
Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IX
(9/1992), đồng chí được bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Trên cương vị Chủ tịch nước, đồng chí Lê Đức Anh đã có nhiều công lao, cống
hiến to lớn với nhiều dấu ấn nổi bật cả về đối nội và đối ngoại. Với cương vị
Chủ tịch nước, đồng chí và các đồng chí trong Bộ Chính trị đã dồn hết tâm lực
cho công việc với quyết tâm và cố gắng cao nhất, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, phát huy mọi động lực mới, khai thác mọi tiềm năng để phát triển sản xuất,
nâng cao đời sống nhân dân. Đối với công tác đối ngoại, Chủ tịch nước Lê Đức Anh
đã có nhiều đóng góp quan trọng trên lĩnh vực đối ngoại của đất nước, nổi bật là
việc xúc tiến bình thường hóa quan hệ với Mỹ và thúc đẩy Việt Nam gia nhập
ASEAN. Sau khi Việt Nam và Mỹ bình thường hóa quan hệ, hàng loạt các quốc gia đã
tìm đến Việt Nam để tìm hiểu và hợp tác, đầu tư về kinh tế, khoa học công nghệ…
Là cán bộ lãnh đạo, chỉ huy ở tầm
chiến lược, nhưng đồng chí Lê Đức Anh luôn xông xáo, không ngại gian khó, luôn
có mặt ở những nơi khó khăn để chỉ đạo cách giải quyết. Trong chiến đấu và trong
công việc, đồng chí rất quyết đoán, thẳng thắn và nghiêm khắc, nhưng trong sinh
hoạt đời thường, đồng chí thương yêu, quan tâm, chăm lo và sẵn sàng chia ngọt sẻ
bùi với cán bộ, chiến sĩ. Là Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, khi đến thăm
đơn vị quân đội, đồng chí nói chuyện rất thân mật, gần gũi với các chiến sĩ trẻ.
Đồng chí luôn động viên, giúp đỡ các cựu chiến binh khắc phục khó khăn; quan tâm
chỉ đạo giải quyết tốt các chế độ chính sách. Là Chủ tịch nước, song lối sống
giản dị, tiết kiệm, ghét thói khoa trương hình thức là đức tính không hề thay
đổi của đồng chí Lê Đức Anh. Nhiều chuyến đi chỉ mình đồng chí và trợ lý, không
muốn những nghi lễ đón tiếp linh đình. Để nắm bắt tình hình thực tế, nhìn rõ
những thuận lợi, khó khăn, đồng chí luôn lắng nghe để nắm bắt tâm tư, tình cảm
của nhân dân; bởi thế khi làm việc với lãnh đạo các địa phương, đơn vị, những ý
kiến chỉ đạo của đồng chí rất xác đáng và phù hợp với thực tiễn...
Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng
sôi nổi, phong phú, với bao khó khăn, thử thách, đồng chí Lê Đức Anh luôn hoàn
thành xuất sắc trọng trách trước Đảng, Nhà nước, Tổ quốc và nhân dân; đóng góp
to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Kỷ niệm 100 năm ngày sinh đồng chí
Lê Đức Anh là dịp để chúng ta ôn lại, tưởng nhớ, tôn vinh và tri ân những cống
hiến to lớn của đồng chí đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, dân tộc; tuyên
truyền, giáo dục cán bộ, chiến sĩ và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ học tập, rèn
luyện theo tấm gương đạo đức cách mạng của đồng chí; nêu cao ý chí tự lực, tự
cường, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, đoàn kết xây dựng quê hương, đất nước ngày
càng văn minh, giàu đẹp và bảo vệ vững chắc Tổ quốc thân yêu của chúng ta.
Với 99 năm tuổi đời, hơn 80 năm tuổi Đảng, đồng chí Lê Đức Anh đã trọn
đời phấn đấu, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và nhân
dân ta. Đồng chí được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao
quý: Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân
công hạng nhất, Huân chương Chiến công hạng nhất, Huân chương Chiến
thắng hạng nhất, Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng và nhiều huân chương, huy
chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế. |
B.B.T