Góc nhìn giáo dục
Góc nhìn giáo dục: Khó quên khi sống với nghề
BT- Đọc bài
“Chuyện ra đề thi” (trên Bình Thuận cuối tuần), nhiều đồng nghiệp hỏi, suốt thời
gian dài tham gia ra đề, chúng tôi có kỷ niệm nào đáng nhớ? Kỷ niệm thì nhiều –
nhưng có số chuyện ấn tượng khó quên.
Đi tìm cái mới
Hồi thập niên 70 – 80 thế kỷ XX, từ
Bộ đến các địa phương ra đề thi môn Văn chỉ có một câu nghị luận – chủ yếu nghị
luận văn học. Khi sở giao chúng tôi ra đề thi tốt nghiệp PTCS và tuyển sinh 10
PTPT (nay là THCS – THPT), thấy cấu trúc chương trình dạy học cấp PTCS có 3 phân
môn: Văn – Tiếng Việt – Làm văn. Trong đó, phân môn Tiếng Việt chiếm 1/4 chương
trình, nhưng chưa khi nào thấy ra đề kiểm tra kiến thức về phân môn này. Chúng
tôi đề nghị giám đốc sở cho ra đề 2 thành phần điểm: Làm văn và Tiếng Việt. Vì
nhận thấy, không phải học sinh nào cũng có năng khiếu để viết tốt bài nghị luận,
ngược lại, có những em năng lực viết tuy yếu, nhưng rất chăm học bài, song việc
ra đề chỉ có một câu nghị luận, không đánh giá được tinh thần, công sức học tập
của các em. Giám đốc nói, hay đấy, nhưng mới quá, bảo chúng tôi làm công văn xin
ý kiến Bộ. Nhận được công văn, Bộ phúc đáp, với 2 nội dung: 1). “Đồng ý đề nghị
thí điểm của Sở về cấu tạo đề thi tốt nghiệp PTCS môn Văn – Tiếng Việt”; 2).
“Sau khi hoàn thành kỳ thi tốt nghiệp PTCS, Sở giáo dục phải tổ chức rút kinh
nghiệm để đi đến kết luận cách ra đề nào là tốt nhất, đánh giá được chính xác
trình độ và năng lực môn Văn và Tiếng Việt của học sinh và báo cáo về Bộ (Vụ
Giáo dục Phổ thông)(1). Thi xong, chúng tôi gửi đề – đáp án và kết quả thi cho
Bộ. Hè năm đó, Bộ cho đăng đề trên “Tạp chí phổ thông” và giới thiệu đây là đề
thí điểm của Sở Giáo dục Thuận Hải, đề nghị các sở bạn tham khảo. Không ngờ
những năm kế tiếp, hình thức ra đề này được nhân rộng, rồi từ Bộ đến các địa
phương tiếp tục ra đề từ 2 câu trở lên. Có Sở ra 2 câu, nhưng cả hai câu đều yêu
cầu nghị luận về văn học, chứ không dành kiểm tra kiến thức phần tiếng Việt. Một
thời gian sau, chúng tôi thấy trên báo – tạp chí có cuộc tranh luận của 2 sở
Giáo dục lớn nhất nước giành bản quyền về hình thức ra đề kiểu này, không ai
chịu nhường ai. Lúc ấy, chúng tôi tìm lại công văn của Sở xin ra đề thí điểm và
công văn phúc đáp của Bộ, nhằm góp thêm tiếng nói vào cuộc tranh luận này, nhưng
hồi ấy chưa học quản lý ISO, hồ sơ xếp không khoa học, tìm mãi không ra, nên im
lặng. Mãi đến 26 năm sau, khi sắp xếp lại toàn bộ hồ sơ để bàn giao chuẩn bị về
hưu, bất ngờ chúng tôi phát hiện ra công văn ấy – nhưng hồi đó công văn đánh máy
trên giấy pelure, nay ố vàng, mực phai, chữ mờ, nhất là công văn gửi xin Bộ, chỉ
còn dạng hình dấu chữ.
Cái mới thường bị
tấn công
Năm 2006, yêu cầu đổi mới, khi chúng
tôi ra đề bài luận văn tuyển sinh vào lớp 10 trường THPT chuyên, chỉ nêu đề tài,
không nêu câu lệnh, để học sinh tự do trong cách cảm nhận, trình bày, diễn đạt.
Đề ra: “Cây chuối ở Việt Nam”, nhằm hướng cho học sinh phải biết quan sát, ghi
nhận, không hời hợt, thờ ơ với những gì mà hằng ngày chúng luôn tiếp xúc. Thấy
cách ra đề khác trước, dư luận lại xôn xao, khen chê có đủ. Vừa thi xong – chưa
chấm, một thầy ở trường chuyên nói với chúng tôi, có một phụ huynh lên gặp anh
than thở: Thằng con tôi chắc rớt mất rồi thầy ơi! Hỏi bài chưa chấm sao biết
rớt? Ông ta lắc đầu: Chết thật, ngay cạnh giếng nước trong vườn nhà có mấy bụi
chuối, thế mà nó tả: Cây chuối nhà em hai người ôm không xuể, vào những trưa hè
nắng nóng, em thường leo lên cây hóng mát… Sau khi chấm bài xong, có giám khảo
kể, có em còn nói thân chuối dùng để xẻ gỗ làm nhà. Cá biệt là thế đấy, hời hợt,
thờ ơ,… chứ nhìn tổng thể, nhiều em viết về cây chuối rất hay.
Thời điểm ấy, các sở bạn cũng tìm
cách đổi mới ra đề, gặp những người chưa bắt kịp, đưa lên công luận, phê bình
gay gắt. Còn nhớ, dịp Bộ tổ chức tập huấn thay sách, anh Vũ Nho(2) chia sẻ: Có
lần, Sở Giáo dục HP muốn đổi mới nội dung đề thi tuyển sinh vào trường chuyên
nhằm chọn được những học sinh có năng lực, nên nhờ anh ra đề. Trong đề nghị
luận, anh trích lời của ông giáo nói với lão Hạc trong truyện ngắn “Lão Hạc” của
Nam Cao: “Không bao giờ nên hoãn sự sung sướng lại”, yêu cầu học sinh dựa vào
truyện để bình. Học sinh thi xong, đem đề về nhà, số giáo viên ôn thi bị “trật
tủ”, bất bình, đưa đề lên báo địa phương, nêu đủ thứ quan điểm, gây dư luận phản
ứng. Trong những người tham gia phê phán, không ít người chưa đọc qua truyện
“Lão Hạc” trong chương trình. Đến khi kết quả chọn được những học sinh thực sự
có năng lực vào trường, nhiều người mới vỡ ra, dư luận lắng xuống, rồi rơi vào
quên lãng.
Bây giờ nhớ lại, nhiều khi tưởng như
“trên đe dưới búa”, nhưng lại thấy vui nhiều hơn buồn.
Võ Nguyên
(1): CV số 2007/GDPT ngày 25/4/1991 do ông Nguyễn Tiến Cường – Phó Vụ trưởng Vụ
Giáo dục Phổ thông ký; (2): PGS TS, khi ấy anh phụ trách môn Ngữ văn THCS ở Bộ.