Theo dõi trên

40 năm cuộc chiến biên giới phía Bắc: Việt Nam dùng quyền tự vệ chính đáng để đánh trả

19/02/2019, 08:51

BT- Thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc và cùng quân dân Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng Pol Pot (7/1/1979) đã đẩy sự căng thẳng trong quan hệ Trung Quốc - Việt Nam lên đỉnh điểm.

 Lừa mị dư luận, vu cáo Việt Nam

Thật ra, ngay từ những năm đầu Việt Nam thống nhất đất nước, Trung Quốc đã tăng cường các hoạt động quân sự, khiêu khích vũ trang, xâm lấn đất đai nước ta (từ 234 vụ năm 1975, tăng lên 2.175 vụ năm 1978), gây tình hình căng thẳng, phức tạp trên vùng biên giới phía Bắc Việt Nam. Tháng 5/1978, Trung Quốc vô cớ dựng lên “sự kiện nạn kiều”, trắng trợn vu cáo Việt Nam ngược đãi, xua đuổi Hoa kiều, rút chuyên gia, gây ra tình hình hết sức căng thẳng. Từ cuối năm 1978, Trung Quốc tăng cường làm đường cơ động, xây dựng căn cứ, hệ thống kho trạm, vận chuyển tập kết vật chất. Đồng thời, thực hiện các hoạt động nghi binh, đề ra kế hoạch “dạy cho Việt Nam một bài học”. Họ tuyên bố lừa mị dư luận trong nước và quốc tế rằng chỉ sử dụng lực lượng “bộ đội biên phòng” để thực hiện “phản kích tự vệ”, bởi Việt Nam gây ra xung đột, “quấy rối biên cương” phía Nam. Thực tế, trên vùng biên giới Việt - Trung không có lực lượng vũ trang nào của Việt Nam được triển khai gây sức ép buộc Trung Quốc phải “tự vệ”, chỉ có phía Trung Quốc chuẩn bị lực lượng quy mô lớn đánh Việt Nam. Từ tháng 8/1978, phía Trung Quốc điều động lực lượng từ phía sau ra biên giới gồm 9 quân đoàn và 5 sư đoàn độc lập (tổng cộng 32 sư đoàn bộ binh), cùng 550 xe tăng, xe bọc thép, 2.558 pháo (trong đó có 1.092 pháo xe kéo), 676 máy bay...

                
Ảnh tư liệu

 Bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc

Trước diễn biến căng thẳng trên vùng biên giới phía Bắc, Đảng và Nhà nước ta kiên trì chủ trương giải quyết bằng biện pháp hòa bình; đồng thời khẩn trương tăng cường lực lượng, đẩy mạnh xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trên phạm vi cả nước, nhất là ở Quân khu 1 và Quân khu 2. Đây là một địa bàn chiến lược rất quan trọng, án ngữ toàn bộ vùng biên giới phía Bắc, Tây Bắc và Đông Bắc của Tổ quốc, có chung đường biên giới với Trung Quốc dài hơn 400 km, chạy qua 145 xã, 19 thị trấn thuộc 27 huyện của 6 tỉnh (Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hà Tuyên (nay là Hà Giang, Tuyên Quang), Hoàng Liên Sơn (nay là Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu). Tháng 7/1978, Hội nghị Trung ương 4 (khóa IV) của Đảng đã chỉ đạo tập trung lực lượng để giải quyết nhanh nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trên hướng biên giới Tây Nam; đồng thời động viên, tăng cường lực lượng và công tác phòng thủ đất nước ở biên giới phía Bắc.

Thực hiện sự chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, các đơn vị quân đội được tăng cường về tổ chức biên chế, bổ sung quân số, vũ khí, trang bị, nâng cao sức mạnh chiến đấu, sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ được giao. Bất chấp nỗ lực giải quyết căng thẳng bằng con đường hòa bình của ta, dưới sự chỉ đạo của nhà cầm quyền Trung Quốc, từ 3 giờ 30 phút ngày 17/2/1979, quân Trung Quốc sử dụng pháo binh bắn phá một số mục tiêu trong lãnh thổ của nước ta, sau đó huy động hơn 600.000 quân tấn công sang lãnh thổ của Việt Nam. Hướng tấn công chủ yếu là Lạng Sơn và Cao Bằng; hướng quan trọng là Lào Cai (Hoàng Liên Sơn); hướng phối hợp là Phong Thổ (Lai Châu); hướng nghi binh, thu hút lực lượng ta là Quảng Ninh và Hà Tuyên.

Trước cuộc tấn công quy mô lớn của Trung Quốc, ngày 17/2/1979, Chính phủ ta đã ra tuyên bố: Nhà cầm quyền Trung Quốc đã đi ngược lại lợi ích của nhân dân, phá hoại nghiêm trọng tình hữu nghị truyền thống giữa nhân dân hai nước và khẳng định: “Quân và dân Việt Nam không có con đường nào khác phải dùng quyền tự vệ chính đáng của mình để đánh trả”. Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, quân và dân ta, nhất là ở các tỉnh biên giới phía Bắc một lần nữa phát huy cao độ truyền thống cách mạng, sát cánh cùng các lực lượng vũ trang, kiên quyết chiến đấu, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.          

 Diễn biến chính của cuộc chiến đấu

* Trên mặt trận Lạng Sơn: Mở đầu cuộc tấn công, đối phương sử dụng các Quân đoàn 43, 55 và 54 (dự bị), có 160 xe tăng, xe bọc thép, 350 pháo cơ giới, chia làm nhiều mũi đánh vào Bản Chắt (Đinh Lập), Chi Ma, (Lộc Bình), Tân Thanh, Tân Yên (Văn Lãng) và khu vực thị trấn Đồng Đăng. Lực lượng vũ trang địa phương chặn đánh các mũi tiến công của quân Trung Quốc suốt 3 ngày (từ ngày 17- 20/2) ở phía Tây đường 1A và đường 1B. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng quyết liệt. Lạng Sơn có 10 đồn, trạm, đơn vị cơ động Công an nhân dân vũ trang (nay là Bộ đội Biên phòng) trực tiếp chiến đấu, liên tục đánh chặn, gây cho đối phương một số thiệt hại nặng. Sau 10 ngày tiến công không đạt mục tiêu đề ra, ngày 27/2, phía Trung Quốc huy động Quân đoàn 54 dự bị vào hỗ trợ các Quân đoàn 43, 55 tiến công từ 3 hướng Đồng Đăng, Cao Lộc, Lộc Bình, nhằm mục tiêu thị xã Lạng Sơn. Các đơn vị chủ lực Quân khu 1 và lực lượng vũ trang địa phương đánh chặn quyết liệt, gây cho đối phương nhiều thiệt hại.

* Trên mặt trận Cao Bằng: Trung Quốc huy động 2 quân đoàn (41, 42) và Quân đoàn 50 làm lực lượng dự bị, hai trung đoàn địa phương Quảng Tây, 4 trung đoàn độc lập, 225 xe tăng, xe bọc thép, hơn 300 pháo cơ giới, hàng chục tiểu đoàn các xã giáp biên và hàng nghìn dân binh. Mục tiêu chủ yếu là đánh vào thị xã Cao Bằng và tiêu diệt Sư đoàn 346 của ta. Cuộc chiến đấu trên mặt trận Cao Bằng diễn ra quyết liệt. Các đơn vị thuộc Sư đoàn 346, bộ đội địa phương cùng lực lượng dân quân tự vệ đã chiến đấu anh dũng, lập chiến công oanh liệt, buộc đối phương chịu nhiều thiệt hại. Cao Bằng trở thành chiến trường đánh giặc khắp nơi. Phát huy sức mạnh thế trận chiến tranh nhân dân, các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương phối họp với dân quân tự vệ liên tục chiến đấu, gây nhiều khó khăn và thiệt hại cho đối phương.

* Trên mặt trận Hoàng Liên Sơn: Quân Trung Quốc dùng pháo binh bắn phá một số mục tiêu trong lãnh thổ nước ta. Sau đó, huy động 2 quân đoàn (13, 14), một sư đoàn (thuộc Quân đoàn 50) cùng một số trung đoàn địa phương, có 100 xe tăng, xe bọc thép và 450 khẩu pháo hỗ trợ. Cuộc chiến đấu trên mặt trận Hoàng Liên Sơn diễn ra rất quyết liệt. Các đơn vị vũ trang của ta đã chốt giữ các khu vực, điểm cao quan trọng, chiến đấu dũng cảm, đánh tan và đẩy lùi nhiều đợt tiến công của đối phương. Ở khu vực thị xã Lào Cai, bộ đội địa phương, công an nhân dân vũ trang và dân quân tự vệ kiên cường chiến đấu, giữ vững từng mét hào, căn nhà, dãy phố. Lực lượng vũ trang thị xã đẩy lùi nhiều đợt tiến công của đối phương ở các tiểu khu Duyên Hải, Kim Tân, Phố Mới, Cốc Lừu, Pháo Đài...

* Trên mặt trận Lai Châu: Phía Trung Quốc huy động Quân đoàn 11 đánh vào Pa Nậm Cúm, Nậm Cáy, Nậm Xe; mục tiêu chính là thị trấn Phong Thổ. Hai sư đoàn thuộc Quân đoàn 11 cùng lực lượng dân binh, có xe tăng và pháo binh hỗ trợ, chia làm ba mũi tiến vào Lai Châu. Bị lực lượng vũ trang địa phương ta chặn đánh, sau 3 ngày đối phương mới tạo được bàn đạp ở khu vực biên giới. Sau 11 ngày dừng lại để củng cố và đưa thêm lực lượng dự bị vào chiến đấu, đến ngày 5/3, đối phương chiếm được thị trấn Phong Thổ, nhưng sau đó bị quân và dân ta đánh trả, buộc phải rút quân.

* Trên mặt trận Hà Tuyên: Trung Quốc huy động 2 sư đoàn và một số trung đoàn địa phương chia làm ba mũi tiến công vào các khu vực Thanh Thủy, Đồng Văn và Mèo Vạc (nay thuộc tỉnh Hà Giang). Ngày 18/2, phía Trung Quốc huy động bộ binh có pháo binh hỗ trợ mở cuộc tiến công vào các chốt do Đội Tự vệ 784 Lâm trường Mèo Vạc và dân quân Thượng Phòng (huyện Mèo Vạc) trấn giữ. Kiên quyết đánh trả các đợt tiến công của quân Trung Quốc, sau hơn chục ngày chiến đấu, quân và dân Hà Tuyên đã lập nhiều chiến công, bẻ gãy các mũi tiến công của đối phương vào các huyện Mèo Vạc, Đồng Văn, Thanh Thủy.

* Trên mặt trận Quảng Ninh: Quân Trung Quốc huy động 2 sư đoàn bộ binh, tấn công vào Thán Phán (huyện Móng Cái) và Cao Ba Lanh (huyện Bình Liêu). Đồng thời, dùng pháo bắn dữ dội vào thị xã Móng Cái và các khu vực Hoành Bồ, Đồng Văn, hòng phối hợp với cánh quân hướng chủ yếu ở Lạng Sơn. Trước cuộc tiến công của quân Trung Quốc, lực lượng vũ trang tỉnh và các huyện Bình Liêu, Móng Cái, Tiên Yên anh dũng đánh trả, đánh tan hàng chục đợt tiến công của đối phương, giữ vững địa bàn.

Trải qua hơn 10 ngày chiến đấu, lực lượng vũ trang Quân khu 1, Quân khu 2 và nhân dân 6 tỉnh biên giới phía Bắc đã đánh trả quyết liệt các đợt tiến công của quân Trung Quôc. Ta đã bẻ gãy nhiều mũi tiến công, tiêu diệt nhiều sinh lực và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, làm chậm ý đồ đánh nhanh, chiếm nhanh các mục tiêu theo kế hoạch ban đầu, buộc quân Trung Quốc phải đưa lực lượng dự bị chiến lược vào hỗ trợ, cứu nguy cho lực lượng bị bao vây, cô lập ở Cao Bằng, Lạng Sơn và Lào Cai. 

Ngày 4/3/1979, Ban Chấp hành Trung ương ra lời kêu gọi: “Đồng bào và chiến sĩ cả nước thi đua lao động sản xuất với kỷ luật chặt chẽ và năng suất cao, chi viện nhiều nhất cho tiền tuyến, hăng hái luyện tập quân sự, nâng cao cảnh giác”, quyết tâm “giữ vững biên cương của Tổ quốc”. Ngày 5/3/1979, Chủ tịch nước công bố Lệnh tổng động viên trong cả nước để bảo vệ Tổ quốc. Đáp lời kêu gọi và Lệnh tổng động viên, cả nước hết lòng, hết sức chi viện cho tiền tuyến. Do không đạt được mục đích đề ra, bị quân, dân các tỉnh biên giới giáng trả mạnh mẽ, tổn thất nặng nề, đồng thời dư luận tiến bộ trên thế giới, trong nước lên án mạnh mẽ, ngày 5/3/1979, Trung Quốc buộc phải tuyên bố rút quân trên tất cả các hướng.  

    
    Cuộc chiến   đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc, quân và dân ta đã gây tổn   thất cho 9 quân đoàn chủ lực, loại khỏi vòng chiến đấu 62.500 quân địch,   tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn, 18 tiểu đoàn, bắn cháy và   phá hủy 550 xe quân sự, trong đó có 280 xe tăng và xe bọc thép, phá hủy   115 khẩu pháo và cối hạng nặng, thu nhiều vũ khí và đồ dùng quân sự...

 Như Nguyễn



(0) Bình luận
Bài liên quan
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO
40 năm cuộc chiến biên giới phía Bắc: Việt Nam dùng quyền tự vệ chính đáng để đánh trả