Góp ý 3 về Dự thảo Hiến pháp năm
Góp ý 3 về Dự thảo Hiến pháp năm 1992
BTO- Dự thảo Hiến
pháp mới đang được tổ chức lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân. Bài viết này xin
đóng góp một số ý kiến vào Dự thảo Hiến pháp như sau:
*
Về những vấn đề chung
1.Cần
cụ thể hóa các nội dung của dân chủ trực tiếp trong Hiến pháp
Lần đầu tiên trong
Hiến pháp quy định về vấn đề dân chủ trực tiếp, tại Điều 6 Dự thảo quy định: “Nhân
dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ
đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của
Nhà nước”. Đây là một điểm mới và tiến bộ vì các Hiến pháp
trước đây (1959, 1980, 1992) chưa có quy định về dân chủ trực tiếp, hơn nữa đã
đề cao dân chủ trực tiếp hơn dân chủ đại diện vì cụm từ “dân chủ trực tiếp” được
đặt lên trước cụm từ “dân chủ đại diện”.
Tuy nhiên quy định
trong dự thảo “thông qua Quốc hội, Hội đồng
nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước” chỉ là dân chủ đại diện.
Còn dân chủ trực tiếp ngoài quy định chung chung tại khoản 1 điều 29 “Công dân
có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị
với cơ quan nhà nước về các vấn đề của địa phương và cả nước” và quy định tại
điều 30 “Công dân có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”,
trong các điều khoản còn lại không cụ thể hóa dân chủ trực tiếp ở những việc gì
và bằng cách nào. Do vậy đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu bổ sung các nội dung
của dân chủ trực tiếp vào Hiến pháp thì mới thể hiện được bản chất quyền làm chủ
của dân.
2.
Cần thống nhất trong việc sử dụng
thuật ngữ
Hiến pháp là văn
bản có giá trị pháp lý cao nhất, chỉ quy định các vấn đề cơ bản nhất về chế độ
chính trị; quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; kinh tế, xã
hội văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ và môi trường; bảo vệ tổ quốc; tổ chức
bộ máy nhà nước. Đối với những vấn đề cụ thể hơn thì Hiến pháp có quy định dẫn
chiếu thực hiện theo quy định của pháp luật, qua nghiên cứu Dự thảo sửa đổi Hiến
pháp thấy thường sử dụng các cụm từ “theo quy định của luật”, “theo luật định”,
“do luật định”, “theo pháp luật”,“theo quy định của pháp luật”, “do pháp luật
quy định” là chưa thống nhất và chưa nhất quán.
Các ý kiến cho rằng
“theo quy định của luật”, “theo luật định”, “do luật định” là có nghĩa giống
nhau, để dẫn chiếu vấn đề đó sẽ được một văn bản luật hoặc bộ luật điều chỉnh;
còn “theo quy định của pháp luật”, “do pháp luật quy định” cũng có nghĩa giống
nhau, để dẫn chiếu vấn đề đó sẽ được một văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh,
văn bản đó có thể là luật hoặc văn bản dưới luật; vì pháp luật có nội hàm rộng
hơn luật. Do vậy chúng tôi đề nghị cần thống nhất sử dụng thuật ngữ “theo quy
định của pháp luật” để dẫn chiếu vấn đề sẽ được một văn bản quy phạm pháp luật
điều chỉnh, tùy tính chất quan trọng mà vấn đề đó sẽ được quy định trong luật
hoặc văn bản dưới luật, không nên quy định cứng nhắc.
*
Chương 1: Chế độ chính trị
3. Sửa
đổi Khoản 3 Điều 5
Dự thảo quy
định: “Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt.
Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát
huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình”
Đề nghị sửa đổi:
“Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt, Nhà nước có biện pháp bảo vệ và giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết,
giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và
văn hoá tốt đẹp của mình”.
Lý do:
Việc bảo vệ và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt là hết sức cần thiết, bởi vì
hiện nay tiếng Việt đang bị lai căng, ngoại hóa quá nhiều, từ các sản phẩm, dịch
vụ, cho đến tên các dự án bất động sản, tên công ty, nhà hàng, khách sạn, các
chương trình truyền hình của Nhà nước và cả Sách giáo khoa. Một số quốc gia phát
triển cao như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc đã có quy định phải dùng ngôn ngữ
bản địa trong các bảng hiệu trên đường phố, tiếng nước ngoài chỉ là ngôn ngữ
phụ, nhưng ở Việt Nam vấn đề này không được quan tâm nên đã đến lúc phải quy
định trong Hiến pháp về việc bảo vệ và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
4
. Sửa đổi Khoản 4 Điều 5
Dự thảo quy
định: “Nhà nước thực hiện chính sách
phát triển toàn diện và tạo điều kiện để tất cả các dân tộc thiểu số phát
huy nội lực, hoà nhập vào sự phát triển chung của đất nước”
Đề nghị sửa đổi:
“Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để tất cả
các dân tộc phát huy nội lực, hoà nhập vào sự phát triển chung của đất nước” -
bỏ cụm từ “thiểu số”.
Lý do:
Mặc dù Ban soạn thảo đưa ra quy định này để làm cơ sở cho việc xây dựng chính
sách hỗ trợ đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển theo kịp sự phát triển
chung của đất nước. Nhưng nếu dùng thuật ngữ “dân tộc thiểu số” thì sẽ có “dân
tộc đa số”, như vậy vô hình chung dẫn tới sự phân biệt giữa dân tộc đa số (người
Kinh) có trình độ cao hơn và “các dân tộc thiểu số” trình độ thấp hơn, cần được
Nhà nước hỗ trợ để phát triển và hòa nhập. Quy định như vậy là không cần thiết,
dễ bị các thế lực thù địch xuyên tạc và lợi dụng, chỉ cần quy định chung “các
dân tộc” là được.
5.
Sửa đổi Khoản 2 Điều 8
Dự thảo quy
định: “Nền hành chính quốc gia, chế độ
công vụ được tổ chức và hoàn thiện để phục vụ nhân dân. Cán bộ, công chức, viên
chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân và chịu sự giám sát của
nhân dân; chống tham nhũng, quan liêu, hách dịch, cửa quyền; thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí”
Đề nghị sửa đổi:
“Nền hành chính quốc gia, chế độ công vụ được tổ chức và hoàn thiện để phục vụ
nhân dân. Cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ
nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; không được tham nhũng, quan
liêu, hách dịch, cửa quyền; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí”.
Lý do:
Chưa rõ ý của Ban soạn thảo muốn đề cập đến trách nhiệm của cán bộ, công chức,
viên chức phải “chống tham nhũng”; hay “chống tham nhũng trong cán bộ, công
chức, viên chức”; hay cán bộ, công chức, viên chức “không được tham nhũng”. Xét
trong cơ cấu của khoản thì chúng tôi hiểu rằng Ban soạn thảo muốn đề cập đến nội
dung “không được tham nhũng” nên đề nghị chỉnh sửa cho phù hợp, nếu ý của Ban
soạn thảo là ý khác thì phải thiết kế lại cho dễ hiểu.
6.
Sửa đổi Khoản 2 Điều 11
Dự thảo quy
định: “Mọi hành vi chống lại độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc đều bị nghiêm trị theo pháp luật”
Đề nghị sửa đổi:
“Mọi hành vi xâm lăng, chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều bị nghiêm trị
theo quy định của pháp luật Việt Nam và luật pháp quốc tế”.
Lý do:
Quy định như dự thảo chỉ phù hợp với việc xử lý các cá nhân và tổ chức trong và
ngoài nước có hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên đối với các quốc
gia khác có hành vi xâm phạm chủ quyền lãnh thổ Việt Nam thì quy định trên chưa
phù hợp, do vậy đề nghị bổ sung thêm hành vi “xâm lăng” để điều chỉnh hành vi
của quốc gia khác xâm phạm chủ quyền lãnh thổ Việt Nam, và dẫn chiếu “luật pháp
quốc tế” để giải quyết khi chủ quyền quốc gia bị xâm lăng.
*
Chương 2:
Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (điều 15-52)
7
. Sửa đổi Khoản 2 Điều 15
Dự thảo quy
định: “Quyền con người, quyền công dân
chỉ có thể bị giới hạn trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng”
Đề nghị sửa đổi:
“Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn hoặc bị tước bỏ
trong trường hợp cần thiết, theo trình
tự và thủ tục do pháp luật quy định,
vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức,
sức khỏe của cộng đồng”.
Lý do:
“giới hạn quyền” không bao hàm “tước bỏ quyền”, nhưng trong thực tế có những
trường hợp quyền con người, quyền công dân bị tước bỏ, chẳng hạn phạm nhân bị
thi hành án tử hình, do vậy cần bổ sung cụm từ “hoặc bị tước bỏ” cho phù hợp.
Bên cạnh đó việc giới hạn hoặc bị tước bỏ quyền con người, quyền công dân phải
tuân theo trình tự thủ tục do pháp luật
quy định, không thể tùy tiện lấy lý do quốc phòng, an ninh quốc gia,
hoặc lý do khác để giới hạn hoặc tước bỏ quyền của một con người hoặc một công
dân nào đó.
8 . Sửa
đổi Khoản 3 Điều 18
Dự thảo quy
định: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài”
Đề nghị sửa đổi:
“Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam bảo hộ quyền lợi chính đáng của công dân
Việt Nam ở nước ngoài”.
Lý do:
Việc Nhà nước bảo hộ công dân của nước mình ở nước ngoài là việc làm cần thiết,
nhưng không phải mọi trường hợp đều được bảo hộ, nếu công dân Việt Nam vi phạm
pháp luật nước sở tại thì Nhà nước không thể bảo hộ được, do vậy cần quy định cụ
thể chỉ bảo hộ khi quyền lợi chính đáng của công dân Việt Nam ở nước ngoài bị
xâm phạm.
9.
Sửa đổi Điều 21
Dự thảo quy
định: “Mọi người có quyền sống”
Đề nghị sửa đổi:
“Mọi người có quyền sống, trừ trường hợp bị tước bỏ theo quy định của pháp
luật”.
Lý do:
Quyền sống là quyền cơ bản và quan trọng nhất, tuy nhiên ở Việt Nam vẫn còn hình
phạt tử hình, như vậy sẽ có những người bị tước bỏ quyền sống. Nếu quy định như
Dự thảo thì quyền sống là bất khả xâm phạm, cho dù đã có quy định tại khoản 2
điều 15 “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn trong trường hợp
cần thiết” nhưng quy định đó cũng không thể bác bỏ được quyền sống. Do vậy cần
bổ sung quy định về trường hợp tước bỏ quyền sống theo quy định của pháp luật.
10.
Sửa đổi Khoản 1 Điều 22
Dự thảo quy
định: “Mọi người có quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân
phẩm”
Đề nghị sửa đổi:
“Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được tự bảo vệ và pháp
luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị bắt nếu
không có quyết định của TAND, quyết định hoặc phê chuẩn của VKSND, trừ trường
hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã”.
Lý do:
Bộ luật hình sự có quy định về phòng vệ chính đáng, đây là trường hợp tự bảo vệ
trước hành vi xâm phạm tới mình, phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm. Bên
cạnh đó vẫn có những trường hợp quyền bất khả xâm phạm về thân thể bị giới hạn,
chẳng hạn bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị kết án tù do phạm tội. Mặc dù đã có quy
định trong Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự, nhưng cần khẳng định
trong Hiến pháp về quyền tự bảo vệ và quyền không bị bắt nếu không có quyết định
của TAND, quyết định hoặc phê chuẩn của VKSND, trừ trường hợp phạm tội quả tang
hoặc đang bị truy nã.
11
. Sửa đổi Khoản 3 Điều 22
Dự thảo quy
định: “Mọi người có quyền hiến mô, bộ
phận cơ thể người và hiến xác theo quy định của luật. Việc thử nghiệm y học,
dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm khác trên cơ thể người phải
được người đó đồng ý”
Đề nghị sửa đổi:
“Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy định của
luật. Việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm
khác trên cơ thể người phải được người đó đồng ý và phù hợp với quy định của
pháp luật”.
Lý do:
Việc thử nghiệm trên cơ thể người phải được người đó đồng ý, đó là điều đương
nhiên, nhưng chưa đủ. Trong thực tế không loại trừ khả năng người được thử
nghiệm bị lệ thuộc về vật chất, tinh thần của người khác, phải miễn cưỡng cho
thử nghiệm trên cơ thể mình, hoặc việc thử nghiệm có tính dã man, do vậy cần bổ
sung thêm điều kiện “phù hợp với quy định của pháp luật” để loại trừ các trường
hợp thử nghiệm nêu trên.
12.
Sửa đổi Khoản 1 Điều 27
Dự thảo quy
định: “Công dân nam, nữ bình đẳng và
có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
và gia đình”
Đề nghị sửa đổi:
“Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã
hội và gia đình” - Bỏ cụm từ “có quyền ngang nhau”
Lý do:
Thuật ngữ “bình đẳng” đã bao hàm cả nội dung “quyền ngang nhau”, không cần thiết
vừa dùng từ “bình đẳng” vừa dùng từ “ngang nhau”. Hơn nữa dùng từ “quyền ngang
nhau” sẽ mang tính chất cào bằng, trong khi thực tế có những quyền không thể cào
bằng tuyệt đối, do vậy nên bỏ cụm từ trên.
13.
Sửa đổi Khoản 2 Điều 32
Dự thảo quy
định: “Người bị buộc tội có quyền được
Tòa án xét xử. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm”
Đề nghị sửa đổi:
“Người bị buộc tội có quyền được Tòa án xét xử. Không ai bị kết án lần thứ
hai về cùng một tội phạm mà người đó
đã bị kết án hoặc đã được tuyên vô tội”.
Lý do:
Việc sử dụng cụm từ “bị kết án hai lần vì một tội phạm” là chưa rõ ràng, dễ gây
nhầm lẫn, chẳng hạn bị xét xử sơ thẩm rồi sau đó xét xử phúc thẩm, hoặc xét xử
sơ thẩm, bị phúc thẩm hủy án, sau đó xét xử lại lần thứ hai, đều có thể hiểu là
bị kết án hai lần. Bản chất của quy định này là không được xét xử lần thứ hai
về cùng một hành vi phạm tội mà hành vi đó
đã bị kết án hoặc đã được tuyên vô tội. Do vậy cần sửa đổi cho rõ
nghĩa hơn, nhằm tránh gây nhầm lẫn về cách hiểu.
14.
Sửa đổi Khoản 1 Điều 33
Dự thảo quy
định: “Mọi người có quyền sở hữu về thu
nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn
và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác;
đối với đất được Nhà nước giao sử dụng thì theo quy định tại Điều 57 và Điều 58”
Đề nghị sửa đổi:
“Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu
sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong các tổ chức kinh tế; đối
với đất được Nhà nước giao sử dụng thì theo quy định tại Điều 57 và Điều 58” -
Bỏ cụm từ “trong doanh nghiệp”.
Lý do:
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế, cụm từ phía sau đã sử dụng thuật ngữ “trong
các tổ chức kinh tế” nên không cần thiết ghi cụ thể doanh nghiệp và các tổ chức
kinh tế khác, chỉ ghi chung các tổ chức kinh tế là đủ.
15
. Sửa đổi Khoản 1 Điều 34
Dự thảo quy
định: “Mọi người có quyền tự do kinh
doanh”
Đề nghị sửa đổi:
“Mọi người có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”.
Lý do:
Việc kinh doanh không thể tự do vô tổ chức mà phải trong khuôn khổ pháp luật,
quy định rõ như trên nhằm loại trừ các trường hợp
kinh doanh trái pháp luật, kinh doanh các mặt
hàng cấm.
16.
Sửa đổi Điều 44
Dự thảo quy
định: “Mọi người có quyền hưởng thụ các
giá trị văn hoá, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa, tiếp
cận các giá trị văn hóa”
Đề nghị sửa đổi:
“Mọi người có quyền hưởng thụ các giá trị văn hoá, tham gia vào đời sống văn
hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa, tiếp cận các giá trị văn hóa. Đồng thời có
trách nhiệm giữ gìn, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc”.
Lý do:
Điều luật chỉ quy định quyền mà không quy định nghĩa vụ, trong khi hiện nay tình
trạng truyền bá, lưu hành văn hóa phẩm độc hại đang diễn ra phổ biến, các hành
vi phản văn hóa, trái thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam xảy ra hàng ngày,
nhưng người dân thờ ơ. Do vậy cần quy định về trách nhiệm giữ gìn, bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc.
17.
Sửa đổi Điều 49
Dự thảo quy
định: “Công dân có nghĩa vụ chấp hành
Hiến pháp và pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội, chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng”
Đề nghị sửa đổi:
“Mọi người có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng”.
Lý do:
Chấp hành Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã
hội, chấp hành quy tắc sinh hoạt công cộng không chỉ là nghĩa vụ của công dân
Việt Nam mà còn là nghĩa vụ của người nước ngoài đang sinh sống và làm việc tại
Việt Nam, nếu dùng thuật ngữ “công dân” thì chỉ điều chỉnh công dân Việt Nam, do
vậy cần dùng thuật ngữ “mọi người” để điều chỉnh cả người nước ngoài đang sống
và làm việc tại Việt Nam.
18.
Sửa đổi Điều 52
Dự thảo quy
định: “Người nước ngoài đấu tranh vì tự
do và độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, dân chủ và hoà bình hoặc vì sự
nghiệp khoa học mà bị bức hại thì được Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam xem xét
việc cho cư trú”
Đề nghị sửa đổi:
“Người nước ngoài đấu tranh vì tự do và độc lập dân tộc, vì CNXH, dân chủ và hoà
bình hoặc vì sự nghiệp khoa học chân chính mà bị bức hại thì được Nhà
nước Cộng hoà XHCN Việt Nam xem xét việc cho cư trú”.
Lý do:
Sự nghiệp khoa học không phải trong mọi trường hợp đều vì lợi ích của đa số hoặc
nhằm phục vụ con người, mà có những trường hợp nhằm gây thiệt hại cho con người,
chẳng hạn nghiên cứu chế tạo vũ khí hóa học, vũ khí sinh học có khả năng gây
nguy hại cho con người, những trường hợp này không nên cho cư trú. Do vậy cần
ghi rõ trong Hiến pháp chỉ xem xét việc cho cư trú trong trường hợp vì sự nghiệp
khoa học chân chính mà bị bức hại.
*
Chương 3:
Kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường (điều 53-68)
19.
Sửa đổi Khoản 3 Điều 58
Dự thảo quy
định: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức,
cá nhân sử dụng có bồi thường theo quy định của pháp luật trong trường hợp thật
cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, lợi ích công
cộng và các dự án phát triển kinh tế - xã hội”
Đề nghị sửa đổi:
“Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân sử dụng có bồi thường theo quy định
của pháp luật trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc
vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng” - Bỏ cụm từ “các dự án phát triển kinh
tế - xã hội”.
Lý do:
Các dự án phát triển kinh tế - xã hội bao gồm các dự án phát triển kinh tế nhằm
phục vụ lợi ích của cộng đồng xã hội do Nhà nước thực hiện và các dự án phát
triển kinh tế của các doanh nghiệp nhằm mục đích kinh doanh, thương mại. Đối với
các dự án phát triển kinh tế nhằm phục vụ lợi ích của cộng đồng xã hội do Nhà
nước thực hiện thì đã được điều chỉnh bởi cụm từ “vì lợi ích quốc gia, lợi ích
công cộng” rồi. Riêng các dự án phát triển kinh tế của các doanh nghiệp nhằm mục
đích kinh doanh, thương mại thì Nhà nước không cần và không nên can thiệp vào
việc thu hồi đất mà để cho doanh nghiệp thỏa thuận với công dân, Nhà nước chỉ
đóng vai trò trọng tài, can thiệp một cách công tâm, khách quan, giải quyết thoả
đáng lợi ích giữa người bị thu hồi đất và chủ dự án. Thực tiễn trong những năm
qua cho thấy, tình trạng người dân khiếu kiện về đất đai nhiều phần lớn là do
những bất hợp lý giữa lợi ích của người bị thu hồi đất và chủ dự án đầu tư,
người dân thường bị thu hồi đất với giá rẻ, chủ đầu tư sau khi làm xong cơ sở hạ
tầng đã bán lại với giá cao hơn gấp nhiều lần. Do vậy không nên đánh đồng dự án
nhằm phục vụ lợi ích cộng đồng xã hội và dự án kinh doanh của các doanh nghiệp,
nếu đánh đồng và gọi chung là dự án phát triển kinh tế - xã hội thì sẽ phát sinh
tình trạng các chủ đầu tư chạy dự án, thoả hiệp với các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền để thu hồi đất của tổ chức, cá nhân với giá thấp, lợi ích nghiêng về chủ
đầu tư là các doanh nghiệp, đây là kẽ hở tạo điều kiện cho tham nhũng phát sinh.
Cần bỏ cụm từ “các dự án phát triển kinh tế - xã hội” để tách bạch rõ ràng giữa
kinh doanh và phục vụ lợi ích xã hội, nhằm hạn chế điều kiện nảy sinh tham nhũng
trong lĩnh vực đất đai.
20.
Sửa đổi Khoản 1 Điều 64
Dự thảo quy
định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần
của xã hội, là động lực phát triển của đất nước. Nhà nước và xã hội chăm lo xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nhân
văn, dân chủ, tiến bộ; bảo tồn, kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa của
các dân tộc Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”
Đề nghị sửa đổi:
“Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu và là động lực
phát triển của đất nước. Nhà nước và xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nhân văn, dân chủ, tiến bộ;
bảo tồn, kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa của các dân tộc Việt Nam,
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”.
Lý do:
Trong các văn kiện của Đảng luôn nhấn mạnh “văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của sự phát triển”, đây là quan điểm hoàn toàn đúng đắn vì văn hóa là những
giá trị tinh thần, là mục tiêu và động lực của sự phát triển. Dự thảo Hiến pháp
chỉ nêu “văn hóa là động lực phát triển của đất nước” là chưa đầy đủ, do vậy cần
sửa đổi cho phù hợp với quan điểm của Đảng.
*
Chương 5:
Quốc Hội (điều 74-90)
21.
Sửa đổi Điều 74
Dự thảo quy
định: “Quốc hội thực hiện quyền lập
hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát
tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”
Đề nghị sửa đổi:
“Quốc hội là cơ quan duy nhất thực hiện
quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và
giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt
động của Nhà nước”.
Lý do:
Quốc Hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, cơ quan đại diện cao nhất của
dân, là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và quyền lập pháp, do vậy cần nhấn
mạnh cụm từ “là cơ quan duy nhất” để thể hiện vai trò độc tôn và duy nhất trong
hoạt động lập hiến và lập pháp; đồng thời cần quy định rõ Quốc Hội có quyền giám
sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy Nhà nước, không có vùng cấm nào
mà Quốc Hội không có quyền giám sát, do vậy cần nhấn mạnh cụm từ “toàn bộ” trước
cụm từ “hoạt động của Nhà nước”.
22.
Sửa đổi Khoản 7 Điều 75
Dự thảo quy
định: “Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ
tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội, các
Ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, các Chủ nhiệm Ủy
ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND
tối cao, Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng
Kiểm toán Nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn
việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên
khác của Chính phủ, Thẩm phán TAND tối cao; phê chuẩn danh sách thành
viên Hội đồng quốc phòng và an ninh, danh sách thành viên Hội đồng Hiến pháp,
Hội đồng bầu cử quốc gia”
Đề nghị sửa đổi:
“Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội,
các Phó Chủ tịch Quốc hội, các Ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội
đồng dân tộc, các Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án
TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao, Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp, Chủ tịch
Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán Nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác
do Quốc hội thành lập; phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ
tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, phê chuẩn danh sách thành
viên Hội đồng quốc phòng và an ninh, danh sách thành viên Hội đồng Hiến pháp,
Hội đồng bầu cử quốc gia” - Bỏ cụm từ “Thẩm phán TAND tối cao”
Lý do:
Chỉ nên trao cho Quốc Hội thẩm quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc phê chuẩn
việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh chủ chốt ở trung ương từ cấp
bộ trưởng và tương đương trở lên và phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc
phòng và an ninh, danh sách thành viên Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc
gia. Riêng đối với Thẩm phán TAND tối cao thì nên giao cho Chủ tịch nước bổ
nhiệm.
* Chương 6:
Chủ tịch nước (điều 91-98)
23.
Sửa đổi Khoản 3 Điều 93
Dự thảo quy
định: “Đề nghị Quốc hội bầu, miễn
nhiệm, bãi nhiệm Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao; căn cứ vào
nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán TAND tối cao;
bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án TAND tối cao, Thẩm phán các Tòa án
khác, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên VKSND tối cao; quyết định đặc xá; căn cứ
vào nghị quyết của Quốc hội, công bố quyết định đại xá”
Đề nghị sửa đổi:
“Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Toà án nhân dân tối cao,
Viện trưởng VKSND tối cao; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án, Thẩm
phán TAND tối cao, Thẩm phán các Tòa án khác, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên
VKSND tối cao; quyết định đặc xá; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, công bố
quyết định đại xá”.
Lý do:
Tại phần trên đã đề nghị giao cho Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán TAND tối cao,
không cần Quốc Hội phê chuẩn, nên phần dưới phải chỉnh sửa cho phù hợp.
23.
Sửa đổi Khoản 5 Điều 93
Dự thảo quy
định: “Thống lĩnh các lực lượng vũ
trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh; quyết định
phong hàm, cấp sĩ quan cấp tướng trong các lực lượng vũ trang nhân dân, đô đốc,
phó đô đốc, chuẩn đô đốc hải quân; bổ nhiệm Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng
cục chính trị QĐND Việt Nam. Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, công bố quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh. Căn cứ
vào nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động
viên cục bộ, công bố tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc
hội không thể họp được, công bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng
địa phương”
Đề nghị sửa đổi:
“Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc
phòng và an ninh; thống nhất quản lý lĩnh vực quốc phòng và an ninh
quốc gia; quyết định phong hàm, cấp sĩ quan cấp tướng trong các lực lượng vũ
trang nhân dân, đô đốc, phó đô đốc, chuẩn đô đốc hải quân; bổ nhiệm Tổng tham
mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị QĐND Việt Nam. Căn cứ vào nghị quyết
của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, công bố quyết định tuyên bố
tình trạng chiến tranh. Căn cứ vào nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, ra
lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố tình trạng khẩn cấp; trong
trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp được, công bố tình trạng khẩn
cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương”.
Lý do:
Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia, thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân
nhưng không có thực quyền, nhưng quyền thống lĩnh chỉ dừng lại ở việc quyết định
phong hàm sĩ quan cấp cao và bổ nhiệm một số vị trí trong các lực lượng vũ trang
nhân dân. Do vậy, cần bổ sung quyền hạn cho Chủ tịch nước theo hướng thực chất
hóa quyền thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân với việc giao cho Chủ tịch
nước nắm Bộ Quốc phòng và Bộ Công an, đầu mối quản lý các lực lượng vũ trang
nhân dân, Chính phủ là cơ quan thường trực giúp Chủ tịch nước trong việc quản lý
lĩnh vực quốc phòng, an ninh.
24.
Sửa đổi Khoản 5 Điều 93
Dự thảo quy
định: “Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh
toàn quyền của Việt Nam; phong hàm, cấp đại sứ; tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn
quyền của nước ngoài; đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng
hoà XHCN Việt Nam với người đứng đầu Nhà nước khác; trình Quốc hội phê chuẩn
điều ước quốc tế quy định tại khoản 14 Điều 75; quyết định phê chuẩn hoặc gia
nhập điều ước quốc tế theo thẩm quyền do Quốc hội quy định”
Đề nghị sửa đổi:
“Quản lý công tác đối ngoại; cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của
Việt Nam; phong hàm, cấp đại sứ; tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước
ngoài; đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt
Nam với người đứng đầu Nhà nước khác; trình Quốc hội phê chuẩn điều ước quốc tế
quy định tại khoản 14 Điều 75; quyết định phê chuẩn hoặc gia nhập điều ước quốc
tế theo thẩm quyền do Quốc hội quy định”.
Lý do:
Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối ngoại thì Chủ
tịch nước phải nắm Bộ Ngoại giao, là đầu mối quản lý lĩnh vực đối ngoại của đất
nước, Chính phủ là cơ quan thường trực giúp Chủ tịch nước trong việc quản lý
lĩnh vực đối ngoại của đất nước.
25.
Sửa đổi Khoản 1 Điều 94
Dự thảo quy
định: “Hội đồng quốc phòng và an ninh
gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên. Danh sách thành viên Hội đồng quốc
phòng và an ninh do Chủ tịch nước trình Quốc hội phê chuẩn. Hội đồng quốc phòng
và an ninh làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số”
Đề nghị sửa đổi:
“Hội đồng quốc phòng và an ninh gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên. Danh
sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh do Chủ tịch nước trình Quốc hội
phê chuẩn. Hội đồng quốc phòng và an ninh làm việc theo chế độ tập thể và quyết
định theo đa số. Trong trường hợp biểu quyết ngang nhau thì thực hiện theo ý
kiến của Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh”.
Lý do:
Hội đồng quốc phòng và an ninh không phải trong mọi trường hợp đều có số người
lẻ, do vậy có khả năng xảy ra tình huống biểu quyết ngang nhau, do vậy cần quy
định rõ trong trường hợp biểu quyết ngang nhau thì phải thực hiện theo hướng của
Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh.
26.
Sửa đổi Điều 95
Dự thảo quy
định: “Khi cần thiết, Chủ tịch nước yêu
cầu Chính phủ họp bàn về những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch
nước”
Đề nghị sửa đổi:
“Khi cần thiết, Chủ tịch nước yêu cầu Chính phủ họp bàn về những vấn đề thuộc
nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước, Chủ tịch nước chủ trì cuộc họp”.
Lý do:
Khi Chủ tịch nước yêu cầu Chính phủ họp bàn về những vấn đề thuộc nhiệm vụ,
quyền hạn của Chủ tịch nước thì phải giao cho Chủ tịch nước quyền chủ trì và
điều hành cuộc họp đó mới phù hợp.
*
Chương 7:
Chính phủ (điều 99-106)
27.
Sửa đổi Điều 99
Dự thảo quy
định: “Chính phủ là cơ quan hành chính
nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là
cơ quan chấp hành của Quốc hội”
Đề nghị sửa đổi:
“Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao
nhất của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp”.
Lý do:
Nước ta theo nguyên tắc tập quyền nên trước hết phải nói đến vị trí của Chính
phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, sau đó mới nói đến chức năng là cơ quan
hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp.
28
Sửa đổi Khoản 6 Điều 101
Dự thảo quy
định: “Thống nhất quản lý về quốc
phòng, an ninh, nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; bảo đảm an ninh quốc
gia và trật tự, an toàn xã hội; xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân; thi
hành lệnh động viên, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết
khác để bảo vệ đất nước”
Đề nghị sửa đổi:
“Là Cơ quan thường trực giúp Chủ tịch nước quản lý về quốc phòng, an
ninh, nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; bảo đảm an ninh quốc gia và
trật tự, an toàn xã hội; xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân; thi hành lệnh
động viên, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết khác để
bảo vệ đất nước”.
Lý do:
Tại phần trên đã đề nghị giao cho Chủ tịch nước là đầu mối quản lý lĩnh vực quốc
phòng, an ninh, Chính phủ là Cơ quan thường trực giúp Chủ tịch nước trong việc
quản lý lĩnh vực này, nên phải bổ sung cụm từ trên cho phù hợp.
29
. Sửa đổi Khoản 7 Điều 101
Dự thảo quy
định: “Thống nhất quản lý công tác đối
ngoại; theo ủy quyền của Chủ tịch nước đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân
danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trừ trường hợp quy định tại
khoản 6 Điều 93; đàm phán, ký, gia nhập, phê duyệt điều ước quốc tế nhân danh
Chính phủ; tổ chức thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức
và công dân Việt Nam ở nước ngoài”
Đề nghị sửa đổi:
“Là Cơ quan thường trực giúp Chủ tịch nước quản lý công tác đối ngoại;
theo ủy quyền của Chủ tịch nước đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trừ trường hợp quy định tại khoản 6
Điều 93; đàm phán, ký, gia nhập, phê duyệt điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ;
tổ chức thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công
dân Việt Nam ở nước ngoài”.
Lý do:
Tại phần trên đã đề nghị giao cho Chủ tịch nước là đầu mối quản lý lĩnh vực
ngoại giao của đất nước, Chính phủ là Cơ quan thường trực giúp Chủ tịch nước
trong hoạt động đối ngoại, nên phải bổ sung cụm từ trên cho phù hợp.
30.
Sửa đổi Điều 105
Dự thảo quy
định:“Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn bản pháp luật để thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của luật và kiểm tra việc thi hành
các văn bản đó”
Đề nghị sửa đổi:
“Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành
văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của
luật và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó. Đồng thời phải chịu trách
nhiệm về sai phạm trong ban hành văn bản pháp luật”.
Lý do:
Hiện nay tình trạng sai sót khi ban hành văn bản pháp luật của các bộ, ngành xảy
ra nhiều. Cần quy định trách nhiệm trên để các bộ, ngành thận trọng hơn khi ban
hành văn bản pháp luật, tránh xảy ra sai sót, ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp
pháp của các tổ chức và công dân.
* Chương 8:
Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân (điều 107-114)
31.
Sửa đổi Khoản 7 Điều 108
Dự thảo quy
định: “Quyền bào chữa của bị can, bị
cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm. Bị can, bị cáo có
thể tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa; đương sự có thể tự mình,
nhờ luật sư hoặc người khác bảo vệ lợi ích hợp pháp”
Đề nghị sửa đổi:
“Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự
được bảo đảm” - Bỏ cụm từ “Bị can, bị cáo có thể tự bào chữa, nhờ luật sư
hoặc người khác bào chữa; đương sự có thể tự mình, nhờ luật sư hoặc người khác
bảo vệ lợi ích hợp pháp”
Lý do:
Chỉ cần quy định nguyên tắc chung là quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền
bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm là đủ, không cần liệt kê việc
bào chữa của bị can, bị cáo, việc bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự như thế
nào, vấn đề này để cho luật quy định
32.
Sửa đổi Điều 111
Dự thảo quy
định: “Bản án, quyết định của Toà án
nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ
quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”
Đề nghị sửa đổi:
“Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan,
tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh
chấp hành. Thẩm phán và hội thẩm nhân dân phải chịu trách nhiệm trước pháp
luật trong việc ra bản án, quyết định”
Lý do:
Cần phải quy định rõ trách nhiệm của Thẩm phán và hội thẩm nhân dân đối với bản
án, quyết định của họ. Như vậy mới bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật, công bằng
và minh bạch.
33.
Sửa đổi Khoản 1 Điều 112
Dự thảo quy
định: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành
quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”
Đề nghị sửa đổi:
“Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của các cơ quan hành pháp, tư pháp”
Lý do:
Chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND đã tồn
tại từ ngày thành lập ngành đến nay, thực tiễn cho thấy việc tiếp tục thực hiện
chức năng này là hết sức cần thiết, do vậy trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm
1992 tiếp tục khẳng định chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động
tư pháp của VKSND. Tuy nhiên trong tình hình hiện nay, cần thiết phải giao cho
VKSND chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan hành pháp,
tương tự như chức năng kiểm sát chung trước đây nhưng chỉ tập trung vào hoạt
động chấp hành pháp luật của các cơ quan hành pháp. Đề xuất này dựa trên các căn
cứ khoa học và thực tiễn như sau:
- Thứ nhất,
Điều 2 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 khẳng định “Nhà nước Cộng hoà XHCN
Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Nhân dân thực hiện quyền
làm chủ của mình thông qua cơ quan đại diện là Quốc hội, Hội đồng nhân dân và
thông qua các cơ quan khác của Nhà nước. Nhân dân giám sát việc thực hiện quyền
lực nhà nước thông qua cơ quan đại diện của mình. Cơ quan đại diện cao nhất của
nhân dân là Quốc Hội, giữ quyền lập pháp và giám sát tối cao, cơ quan đại diện
của nhân dân ở các địa phương là Hội đồng nhân dân, thực hiện quyền giám sát
trong phạm vi địa phương. Để tránh việc lợi dụng và lạm dụng quyền lực phải có
cơ chế giám sát quyền lực chặt chẽ. Quốc hội và Hội đồng nhân dân không thể giám
sát được toàn bộ hoạt động của các cơ quan hành pháp nên phải có cơ quan thay
mặt Quốc Hội thực hiện công việc này. Hiện nay trong cơ cấu tổ chức bộ máy của
Chính phủ và UBND có cơ quan Thanh tra, thực hiện nhiệm vụ thanh tra việc chấp
hành pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội; bên cạnh đó Bộ Tư
pháp có Cục kiểm tra văn bản. Tuy nhiên các cơ quan này nằm trong hệ thống cơ
quan hành pháp nên sẽ không thể thực hiện tốt công việc. Muốn giám sát hoạt động
của các cơ quan hành pháp thì phải có một cơ quan đứng ngoài hệ thống cơ quan
hành pháp. Hiện nay Quốc Hội cũng có một cơ quan độc lập trực thuộc Quốc Hội là
Kiểm toán nhà nước nhưng phạm vi hoạt động hẹp, chỉ trong lĩnh vực tài chính,
còn các lĩnh vực hoạt động khác của các cơ quan hành pháp dễ phát sinh tiêu cực
như đất đai, xây dựng thì không thuộc phạm vi hoạt động của Kiểm toán nhà nước.
Do vậy cần thiết phải có một thiết chế độc lập đứng ngoài cơ cấu của cơ quan lập
pháp và cơ quan hành pháp, thay mặt Quốc Hội kiểm soát việc thực hiện quyền hành
pháp. Trước đây nhiệm vụ này được giao cho VKSND, rất tiếc là năm 2001 đã điều
chỉnh bỏ chức năng này. Trong tình hình hiện nay nếu tổ chức một cơ quan mới sẽ
tốm kém và không hiệu quả bằng việc giao chức năng này cho VKSND tiếp tục thực
hiện như trước đây. Đảng và Nhà nước ta đang đẩy mạnh việc nghiên cứu xây dựng
cơ chế “kiểm soát quyền lực”, nhằm cụ thể hóa một trong những nội dung quan
trọng của Cương lĩnh và Văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng là “phải bảo đảm
sự kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp”. Do vậy trong lần sửa đổi Hiến pháp này, việc giao cho VKSND nhiệm
vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan hành pháp là hợp lý và khả
thi nhất.
- Thứ hai,
Xét dưới góc độ hoạt động thực tiễn, trong các giai đoạn lịch sử trước đây, công
tác kiểm sát chung (sau này gọi là kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh
vực hành chính, kinh tế, xã hội) của VKSND là công cụ sắc bén của Quốc Hội, hoạt
động có hiệu quả. Nhờ cơ chế kiểm soát quyền lực này mà các cơ quan nhà nước
trong mọi hoạt động phải luôn thận trọng nhằm hạn chế vi phạm thiếu sót. Qua hơn
10 năm điều chỉnh chức năng của VKSND (bỏ chức năng kiểm sát chung) theo Nghị
quyết sửa đổi Hiến pháp năm 2001, tình hình chấp hành pháp luật khó được kiểm
soát do công tác kiểm tra, thanh tra chấp hành pháp luật của chúng ta còn nhiều
bất cập và nhiều hạn chế. Tình trạng tham nhũng, lãng phí trong các cơ quan
thuộc bộ máy hành pháp diễn biến hết sức phức tạp, nhất là trong lĩnh vực Ngân
hàng, đầu tư công và hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, với số tiền sai
phạm đặc biệt lớn, hàng trăm nghìn tỷ đồng, làm kiệt quệ đất nước, ảnh hưởng đến
đời sống người dân. Mặc dù Bộ chính trị và BCHTW Đảng đã quyết định tái lập Ban
nội chính trung ương và Ban kinh tế trung ương, là các thiết chế nhằm kiểm soát
hoạt động của các cơ quan nhà nước, trong đó có cơ quan hành pháp. Tuy nhiên đó
là các cơ quan kiểm soát của Đảng, do vậy cần phải có cơ quan nhà nước thực hiện
công việc này. Vừa qua đã có rất nhiều ý kiến cho rằng đã đến lúc giao lại cho
VKSND chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan hành pháp, các
ý kiến này là phù hợp và cần thiết trong bối cảnh hiện nay.
33.
Bổ sung Khoản 4 Điều 112
Đề nghị bổ sung:
“Trong hoạt động của mình Viện kiểm sát nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật; nghiêm cấm mọi hành động can thiệp trái pháp luật vào hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân ”
Lý do:
Quy định như vậy là cần thiết nhằm đảm bảo Viện kiểm sát nhân dân hoạt động độc
lập, chỉ tuân theo pháp luật, không bị can thiệp từ bên ngoài.
34.
Bổ sung Khoản 5 Điều 112
Đề nghị bổ sung:
“Các quyết định của Viện kiểm sát nhân dân phải được các cơ quan, tổ chức, cá
nhân tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành”
Lý do:
Ở cấp độ Hiến pháp cần khẳng định nguyên tắc quan trọng này nhằm bảo đảm hiệu
lực thực tế của các quyết định tố tụng của VKSND phải được các cơ quan, tổ chức,
cá nhân tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành.
*
Chương 9:
Chính quyền địa phương (điều 115-119)
35.
Sửa đổi Khoản 1 Điều 115
Dự thảo quy
định: “Các đơn vị hành chính lãnh thổ
của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam được phân định như sau: Nước chia thành tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương; Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và
thị xã; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện và thị xã; Huyện
chia thành xã, thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường, xã;
quận chia thành phường”
Đề nghị sửa đổi:
“Các đơn vị hành chính lãnh thổ của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam được phân định
như sau: Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tỉnh chia thành
huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực thuộc trung ương chia
thành quận, huyện và thị xã; Huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố thuộc
tỉnh, thị xã chia thành phường, xã; quận chia thành phường. Trong trường hợp
cần thiết, Quốc hội có thể quyết định thành lập các đơn vị hành chính đặc biệt”.
Lý do:
Hiện nay Chính phủ đang chỉ đạo nghiên cứu xây dựng đề án
thành lập đặc khu hành chính - kinh tế Phú
Quốc trực thuộc trung ương, đây là mô hình khá thành công tại Trung Quốc. Nếu đề
án được phê duyệt thì sẽ trái với quy định tại khoản 1 điều 115 Dự thảo, do vậy
cần bổ sung cụm từ “trong trường hợp cần thiết, Quốc hội có thể
quyết định thành lập các đơn vị hành chính đặc biệt” nhằm điều chỉnh trường hợp
thành lập đặc khu hành chính - kinh tế
hoặc các đơn vị hành chính đặc biệt khác.
35.
Bổ sung Khoản 3 Điều 116
Đề nghị bổ sung:
“Đối với một số đô thị lớn, Quốc hội quyết định mô hình chính quyền đô thị,
không theo quy định tại khoản 1 và 2 điều này”.
Lý do:
Hiện nay chúng ta đang nghiên cứu xây dựng mô hình chính quyền đô thị với những
đặc thù riêng về tên gọi, tổ chức bộ máy, mô hình này được nhiều quốc gia tiên
tiến trên thế giới áp dụng. Trong trường hợp mô hình chính quyền đô thị được áp
dụng tại Việt Nam, rất có thể sẽ không tuân theo quy định chung là ở mỗi cấp có
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân như
khoản 1 và khoản 2 điều 116 Dự thảo. Do vậy
cần bổ sung quy định về mô hình chính quyền đô thị cho phù hợp
xu hướng tổ chức chính quyền địa phương trong thời gian tới.
Thạc sĩ Luật:
Nguyễn Đức Thái