Kỳ 3: Người xưa giữ đảo Phú Quý
Văn hóa - Thể thao - Ngày đăng : 05:47, 13/01/2023
Đầu triều Nguyễn, đảo Phú Quý có tên Vu Đảo hay còn gọi là Hòn Khoai. Dù “ở xa ngoài biển”, nhưng từ sớm đã có dân cư quần tụ thành 11 thôn, hàng năm biệt nạp thuế vải trắng (bạch bố) cho triều đình. Sử liệu cho biết, đảo này “đất xấu dân nghèo, chuyên trồng lúa đỏ và khoai nương để sống”. Do vậy, sau khi ổn định triều chính, vua Gia Long (1802-1820) đã cho rà soát lại và nhận thấy rằng thuế vải đối với dân Vu Đảo là nặng, nên “sai châm chước định giảm cho” (1).
Không chỉ giảm thuế, người dân đảo Thuận Tĩnh cũng được vua Minh Mạng (1820-1841) cho phép tráng đinh không sung quân làm lính. Bởi “bọn họ ở cheo leo mãi ngoài biển, đường biển xa cách nếu dồn bổ làm lính tỉnh thì đi lại thay đổi, thực có điều không tiện. Vậy gia ơn đều cho rút về sổ dân, theo lệ cung nộp thuế vải” (2).
Vùng biển đảo từ Bình Thuận xuống Hà Tiên (nay thuộc tỉnh Kiên Giang) tiếp giáp với hải phận các nước Đông Nam Á nên thường bị hải tặc Chà Và, Đồ Bà cướp phá. Thời điểm hoạt động mạnh của các nhóm hải tặc này là vào mùa gió nam (từ tháng 5 trở đi). Riêng ở đảo Phú Quý thì thường có giặc Đồ Bà và Tàu Ô (Thanh/Trung Quốc) quấy nhiễu.
Trong một báo cáo đề ngày 29/1 năm Minh Mạng thứ 14 (Quý Tỵ, 1833) của Lý trưởng 11 thôn (Thới An, Mỹ Xuyên, An Hòa, Phú Ninh, Hương Lăng, Thương Hải, Hải Châu, Thoại Hải, Mỹ Khê, Triều Dương và Hội Thuyên) kê khai các loại súng đạn hiện có trên đảo. Số binh khí này là do thuyền Gia Định cung cấp cho người dân đảo Thuận Tĩnh chống lại một toán giặc Tàu Ô đổ bộ lên đảo cướp bóc trước đó (3).
Cũng trong năm 1833 (tháng 8, Quý Tỵ), người Phú Quý lại phải đương đầu với hải tặc Đồ Bà. Sách Đại Nam thực lục chép lại sự kiện này như sau: “Thuyền giặc Đồ Bà hơn 20 chiếc lén lút xuất hiện ở đảo Thuận Tĩnh tỉnh Bình Thuận. Dân sở tại đánh nhau với giặc bị thương chết hơn 100 người. Tỉnh phái Phó lãnh binh là Phạm Văn Huyền và Phó quản cơ Thuận tráng là Dương Văn Khoa quản lĩnh thuyền quân đi dò bắt, đến đảo Mao Dữ đánh và đoạt được 1 chiếc thuyền của giặc, bắt được 3 tên, bắn giết rất nhiều. Việc ấy đến tai nhà vua, vua thưởng cho lũ Phạm Văn Huyền mỗi người 5 đồng ngân tiền phi long hạng lớn (loại đúc bằng bạc – Đ.T.D); quân, dân 300 quan tiền. Người bị thương, chết được cấp tiền có thứ bậc” (4).
Dẫn lại báo cáo ngày 10/9 năm Quý Tỵ (1833) của Lý trưởng làng Thới An, tác giả Nguyễn Xuân Lý cho biết, vào ngày mùng 9/7, thình lình có 32 chiếc thuyền của hải tặc Đồ Bà cập đảo Thuận Tĩnh bắn chết 32 người dân; trong đó có 4 người ở làng Thới An (5).
Các vụ hải tặc cướp bóc đảo Phú Quý không những được chính sử và văn bản hành chính làng xã ghi lại, nó còn được lưu truyền trong dân gian, phản ánh tinh thần chống giặc, bảo vệ biển đảo quê hương của người dân Phú Quý xưa. Trong quá trình điền dã tại xã Long Hải, chúng tôi được ông Trần Thanh Phong kể lại và cho xem kịch bản Tiếng trống còn vang. Vở cải lương này được biên soạn dựa theo câu chuyện được người xưa kể lại, rằng:
Vào đời Kiều Huy Mạng (?) làm thủ lĩnh cai quản, có tướng giặc Đồ Bà đưa quân vào chiếm đảo nên các hương thôn phải lẩn trốn. Lúc bấy giờ con trai của Kiều Huy Mạng là Kiều Huy Tạng cũng dẫn đứa con gái đầu lòng tên là Kiều Mi xuống thuyền nan đi lánh nạn, để lại người vợ tên Đoàn Thị Cẩm Đương đang mang thai đứa con thứ 2. Trước khi đi, Kiều Huy Tạng bẻ đôi chiếc trâm, một nửa đưa cho vợ giữ. Bà Cẩm Đương ở lại sinh đứa con trai, đặt tên Kiều Huy Vạn. Khi Huy Vạn lên 5 tuổi thì mẹ mất nên phải ở lại ông ngoại Đoàn Châu. Lúc Huy Vạn lên 9, ông ngoại cũng mất. Trước lúc lâm chung ông Châu giao nửa chiếc trâm cho Huy Vạn rồi căn dặn cháu đi tìm cha và chị gái.
Sau khi củng cố lực lượng, đoàn quân của Kiều Huy Tạng trở về, đánh đuổi hải tặc Đồ Bà ra khỏi đảo. Nhiều công trình diễn tập, phòng thủ quân sự cũng được xây dựng sau đó, mà Gò Tạng là một minh chứng. Sau đó hải tặc Tàu Ô do đô đốc Hại Hương và Nu Xầm dẫn đầu lại đến cướp đảo Phú Quý. Lúc bấy giờ trong đội ngũ của Kiều Huy Tạng có tên Phạm Đột vì ham chức quyền nên tiếp tay cho giặc, khiến quân Huy Tạng thua to. Dưới sự giúp sức của nữ chúa Bàn Tranh (?) và bà trấn thủ Văn Giàng (?) đã làm tàu giặc số thì chìm, số bị cháy, tướng Nu Xầm bỏ chạy còn Hại Hương bị dân bắt giữ. Quân Huy Tạng vì thế thắng lớn. 2 cha con họ Kiều cũng có ngày trùng phùng nhờ có nửa chiếc trâm làm tin.
Bảo vệ dân vùng biển đảo giữ một vị trí rất quan trọng trong chính sách của các vua Nguyễn, được Đại Nam thực lục chép lại rất nhiều lần. Theo quan điểm của vua Minh Mạng, các hòn đảo ở nước ta từ xưa dân cư đã đông đúc, nhưng trước năm 1834 nhà nước chưa cấp phát cho thuyền và khí giới để phòng chống khi hải tặc đến cướp bóc. Do vậy nhà vua “truyền dụ cho tổng đốc, tuần phủ, bố chính và án sát các tỉnh ven biển, xét xem những hòn đảo nào có dân ở thuộc về hạt mình, thì sức sai sửa sang chỉnh đốn những thuyền đánh cá đi thực mau lẹ, số dân nhiều thì 3 chiếc, ít thì 2 chiếc, mỗi thuyền chứa được độ trên dưới vài chục người, phí tổn bao nhiêu, Nhà nước sẽ trả. Rồi liệu cấp phát cho trường thương, súng điểu sang và thuốc đạn, khiến họ đi tuần tiễu. Nếu gặp giặc biển, thì một mặt đem nhau chống đánh, một mặt ruổi thuyền đi báo để khỏi chậm trễ lỡ việc” (6).
Vua Minh Mạng còn cho rằng, những việc làm trên chỉ là biện pháp trước mắt. Muốn cho hải phận yên lặng lâu dài “tất phải một phen xếp đặt có quy củ”. Theo đó “chuẩn cho các viên được suy xét tính toán kỹ, hoặc nên đặt pháo đài, phái binh đến phòng giữ, hoặc nên mộ hương dõng ở đó để phòng vệ cho dân; làm thế nào cho đi đến chỗ tốt đẹp thỏa đáng, thì bàn kỹ tâu lên, chờ Chỉ để thi hành” (7).
Văn bản hành chính thế kỷ XIX hiện còn lưu tại Phú Quý cho biết, cả đảo được chia thành 5 toán, riêng Thới An và Hải Châu mỗi thôn 1 toán. Số vũ khí được chia như sau: Thới An có 1 khẩu thần công, 4 khẩu điểu thương, 20 khẩu hỏa hổ, 5 cây trường thương, 5 cân thuốc súng. Thôn Hải Châu cũng được cấp như Thới An, nhưng số thuốc súng là 1 yến 2 cân (1 yến = 10 cân = 6,045 kg) (8).
Thuyền buôn nước ngoài cập đảo cũng được người dân cảnh giác cao độ. Ví như sự kiện 2 chiếc tàu Tây Dương ghé vào năm Nhâm Dần (1842). Lúc bấy giờ chức việc trên đảo đuổi mãi nhưng chiếc tàu này vẫn không chịu đi. Việc trình lên, vua Thiệu Trị bảo rằng: “Tàu của Tây Dương vào đó nếu chỉ vì sự cần dùng củi, nước, không có ý gì khác thì cứ cho họ lên gần bờ kiếm củi, gánh nước. Không cho họ được tự tiện vào nhà dân, cũng không nên xua đuổi ráo riết, để họ cho rằng mình không rộng lòng” (9).
Thay lời kết
Thế kỷ XIX, ở các vùng biển đảo Bình Thuận thường xuyên đối đầu với hải tặc Tàu Ô, Đồ Bà, Chà Và. Cùng với sự góp sức của nhân dân trong vùng thì những biện pháp của triều Nguyễn đã làm nên sự thành công trong công tác phòng chống cướp biển, đem lại cuộc sống yên bình cho nhân dân. Chùm bài viết trên đây đã điểm qua các vụ cướp trên biển Bình Thuận, cũng như chính sách của triều Nguyễn sẽ là bài học kinh nghiệm cho công tác bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay.
Chú thích:
(1). Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục (bản dịch Viện Sử học), tập 1. Nxb Giáo Dục (2007).
(2). Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục (bản dịch Viện Sử học), tập 5. Nxb Giáo Dục (2007).
(3) (8). Trung tâm Nghiên cứu Hán Nôm (Viện KHXH tại Tp. HCM). Sưu tầm tư liệu Hán Nôm trên đảo Phú Quý, Bình Thuận (2000).
(4). Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục (bản dịch Viện Sử học), tập 3. Nxb Giáo Dục (2007).
(5). Nguyễn Xuân Lý. Người xưa bảo vệ đảo Phú Quý. Website Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2010).
(6) (7). Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục (bản dịch Viện Sử học), tập 4. Nxb Giáo Dục (2007).
(9). Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục (bản dịch Viện Sử học), tập 6. Nxb Giáo Dục (2007).