Nhiệt điện Vĩnh Tân 4: Góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia thời gian tới
Xã hội - Ngày đăng : 05:44, 07/01/2025
Vượt qua khó khăn để đảm bảo đủ điện
Nhìn lại năm 2024, Nhà máy Nhiệt điện (NMNĐ) Vĩnh Tân 4 được huy động lên lưới ở mức tải thấp, liên tục giảm tải về mức công suất 300 - 400MW để ưu tiên các nguồn năng lượng tái tạo vào các giờ buổi trưa. Bên cạnh đó, tình hình thủy văn đối với các tháng cuối năm (tháng 11, 12/2024) tương đối tốt, dựa trên nhu cầu hệ thống, bài toán tối ưu thủy/nhiệt điện, Công ty TNHH MTV Vận hành hệ thống điện và thị trường điện Quốc gia (NSMO) ưu tiên huy động khai thác tối đa các nhà máy thủy điện, nguồn năng lượng tái tạo, các nhà máy điện than BOT, do đó sản lượng điện lũy kế và chỉ tiêu kỹ thuật về suất hao nhiệt năm 2024 của nhà máy chưa đạt được như kỳ vọng.
Đầu mùa khô năm 2024, các lệnh cấm vận của Hoa Kỳ cũng đã ảnh hưởng trực tiếp tới các nhà thầu cung cấp than phục vụ sản xuất của đơn vị. Tình huống bất khả kháng này đã vượt ngoài tầm kiểm soát của NMNĐ Vĩnh Tân 4 và trực tiếp làm đứt gãy chuỗi cân đối cung cầu than của đơn vị trong tháng 3 và 4/2024. Chính điều này đã đe dọa đến nguy cơ thiếu hụt than nghiêm trọng và không thể đáp ứng được yêu cầu phát điện trong trường hợp NSMO huy động theo kế hoạch. Tuy nhiên, với việc khẩn trương triển khai đồng bộ các giải pháp có liên quan, NMNĐ Vĩnh Tân 4 đã đảm bảo than phục vụ sản xuất điện trong giai đoạn mùa khô và cả năm 2024.
Khó khăn là vậy, thế nhưng trong năm vừa qua, cụ thể vào lúc 23 giờ 49 phút ngày 7/11/2024, NMNĐ Vĩnh Tân 4 đã đạt mốc sản lượng 50 tỷ kWh điện đầu tiên sau hơn 6 năm vận hành thương mại (Tổ máy thứ nhất vận hành ngày 6/12/2017; Tổ máy thứ hai 31/3/2018; Tổ máy thứ ba 5/10/2019); đây là thời khắc đánh dấu mốc quan trọng góp phần đảm bảo an ninh năng lượng đất nước.
Tiếp tục đảm bảo độ tin cậy và chỉ tiêu hiệu quả các tổ máy
Bước sang năm 2025, NMNĐ Vĩnh Tân 4 đặt mục tiêu tổng sản lượng điện sản xuất là: 11.946 triệu kWh; điện tự dùng và các hạng mục dùng chung của 3 tổ máy là 6,64% (774 triệu kWh); suất tiêu hao dầu DO: 0,735 g/kWh; suất tiêu hao than tinh: 476,59 g/kWh đối với NMNĐ Vĩnh Tân 4 và 480,35 g/kWh đối với NMNĐ Vĩnh Tân 4 mở rộng.
Để đảm bảo được mục tiêu phát điện đề ra, NMNĐ Vĩnh Tân 4 tiếp tục triển khai các biện pháp đảm bảo kỹ thuật trong vận hành các tổ máy như: giảm tối đa các tổn thất nhiệt, tổn thất do rò rỉ; theo dõi, kiểm tra, kiểm định, hiệu chuẩn lại hệ thống, thiết bị đo đảm bảo tin cậy và chính xác để phục vụ quá trình điều khiển tổ máy trong quá trình vận hành; thường xuyên thực hiện thí nghiệm chế độ tối ưu cho lò hơi để tiếp tục xây dựng bộ thông số tối ưu của lò hơi, áp dụng vào thực tế.
Cùng với đó, NMNĐ Vĩnh Tân 4 thực hiện đồng bộ việc quản lý và kiểm soát quá trình bốc dỡ, chuyển tiếp và lưu kho than để hạn chế hao hụt khối lượng than cũng như suy hao nhiệt trị than trong thời gian lưu kho dài ngày. Các hợp đồng cấp than được tăng cường quản lý chặt chẽ, yêu cầu nhà thầu phải đảm bảo tính đồng đều của than giữa các sub-lot 5.000 tấn trong mỗi chuyến hàng, điều chỉnh tăng hệ số phạt từ mức phạt 2 lần lên 3 lần do không đáp ứng yêu cầu về nhiệt trị theo hợp đồng đối với các hợp đồng than để tăng cường khả năng kiểm soát chất lượng các tàu than cung cấp.
Trên chặng đường đầu tiên trong “Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, các khó khăn NMNĐ Vĩnh Tân 4 gặp phải vẫn còn do tình hình địa chính trị thế giới vẫn còn nhiều bất ổn dẫn đến nguồn nhiên liệu đầu vào chưa ổn định. Các tổ máy NMNĐ Vĩnh Tân 4 có gam công suất 600MW/tổ máy, được thiết kế với công nghệ siêu tới hạn, việc các tổ máy thường được huy động ở phụ tải thấp hơn PPA (< 85%RO) và chế độ tải thường xuyên thay đổi (chu kỳ thay đổi 30 phút/lần) sẽ ảnh hưởng lớn đến độ tin cậy của hệ thống thiết bị và suất hao nhiệt. Nhưng với tinh thần đoàn kết, đồng lòng của tập thể cán bộ quản lý và người lao động, mọi khó khăn rồi sẽ vượt qua, đảm bảo nâng cao độ tin cậy các tổ máy, sẵn sàng đáp ứng huy động công suất cao, cung cấp điện liên tục, an toàn, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và phát triển kinh tế, xã hội của đất nước trong những năm tiếp theo.