Hồ Tá Bang với cuộc vận động duy tân tại Bình Thuận đầu thế kỷ XX. Bài 2

Văn hóa - Thể thao - Ngày đăng : 06:02, 22/07/2022

Bài 2: Mở Liên Thành thương quán, chung tay phát triển thực nghiệp

Với mục đích xây dựng nền kinh tế dân tộc tự chủ, làm cho dân phú, nước cường. Đầu thế kỷ XX, các nhà duy tân ở Bình Thuận đã vận động người dân Phan Thiết hùn vốn lập công ty. Sự ra đời của Công ty nước mắm Liên Thành là “kết quả của một hành động tập thể”, trong đó Hồ Tá Bang là một điểm son.

co-phieu.jpg
Cổ phiếu của ông Hồ Tá Bang tại Công ty nước mắm Liên Thành năm 1937 (ảnh tư liệu).

Mở Liên Thành thương quán, chung tay phát triển thực nghiệp

Nghề làm nước mắm, cá khô hoạt động kinh tế chính của người dân ven biển Bình Thuận, nhưng từ lâu vẫn theo lối nhỏ lẻ, hiệu quả thấp. Do đó, ngày 6/6/1906, các ông Nguyễn Trọng Lội (1871-1911), Nguyễn Quý Anh (1883-1938), Nguyễn Hiệt Chi (1870-1935), Trần Lệ Chất (1866-1968), Ngô Văn Nhượng (?) và Hồ Tá Bang quyết định mở công ty nước mắm với tên gọi Liên Thành thương quán.

Vào đầu thế kỷ XX, việc công ty là một khái niệm xa lạ với người Bình Thuận. Do đó, quá trình huy động vốn mở Công ty Liên Thành cũng gian nan không kém. Trước những trở ngại đó, ông Hồ Tá Bang đã cậy nhờ sự giúp đỡ từ anh em vợ là ông Huỳnh Văn Đẩu (tên thường gọi Ba Đẩu), Huỳnh Văn Ngô (Mười Ngô) và một hàm hộ lớn ở Phan Thiết lúc bấy giờ là ông Trần Gia Hòa (Bát Xì) góp vốn.

Ngoài ra, với vai trò là viên chức Tòa sứ Hồ Tá Bang và Nguyễn Hiệt Chi đã tranh thủ được sự ủng hộ của chính quyền và ông Công sứ Garnier và được khuyến khích rằng: “Bỏ tiền vô hội mua bán cũng như các quan bảo hộ gửi tiền nhà Banque, làm quan hay công chức hùn vốn vào hội buôn mà không trực tiếp làm việc hội, thì không có hại gì, không sao hết” (1).

Ngày mở công ty, ông Nguyễn Trọng Lội được cử giữ chức Tổng lý để quán xuyến mọi công việc, cũng như trạch cử sắp đặt nhân sự. Còn các ông Trần Lệ Chất, Hồ Tá Bang, Nguyễn Hiệt Chi và Ngô Văn Nhượng là “người nhà nước” (2) nên phụ trách việc thiết đặt các mối quan hệ với chính quyền địa phương.

Sau khi ông Nguyễn Trọng Lội qua đời, Hồ Tá Bang xin nghỉ việc ở Tòa sứ để tập trung vào việc kinh doanh và giữ chức Tổng lý (tháng 7/1911) thay cho ông Nguyễn Trọng Lội. Với lòng nhiệt thành, tài thực hành và tổ chức, Hồ Tá Bang đã lèo lái Liên Thành vượt qua khó khăn, tiếp tục phát triển với nhiều cơ sở mới mọc lên ở Mũi Né, Phú Hài, Hưng Long, Phan Rí (năm 1915) và cơ sở tại Hội An (1916). Công ty nước mắm Liên Thành còn là nhà bảo trợ mọi phí tổn cho Dục Thanh học đường (thành lập năm 1907).

Ngoài nước mắm, Liên Thành còn bán thuốc bắc, sách vở, bút mực, vải lụa cùng nhiều tạp vật khác; cơ sở Hội An là nơi tập kết gạo, nước mắm (chở từ Phan Thiết ra) và đường, tơ lụa thu mua từ miền Quảng Nam, Quảng Ngãi để đưa về Phan Thiết. Liên Thành còn mở khách sạn để người Việt khi đến Phan Thiết có chỗ nghỉ ngơi; vì khai thác thêm ngành này mà công ty bị một phen phiền nhiễu từ nhà cầm quyền hồi năm 1913. Đó là vụ Phan Xích Long – lãnh tụ của phong trào Hội kín chống Pháp ở Nam kỳ năm 1913 mà chúng tôi đã từng đề cập trong các số báo trước đây (3).

Đến năm 1917, sau 10 năm đầu hoạt động vốn công ty đã lên đến 93.200 đồng, mỗi cổ phần có giá 50 đồng (năm 1906 là 10 đồng, sau tăng lên 20 đồng). Thời điểm này Liên Thành quyết định dời trụ sở chính vào Sài Gòn (vùng Chợ Lớn), biến cải cơ sở ở Phan Thiết thành phân cuộc ngang hàng với các phân cuộc khác. Lúc này, Nguyễn Quý Anh (con trai nhà yêu nước Nguyễn Thông) được công ty ủy thác tròn quyền mọi công việc cải tạo công ty theo chế độ mới ở Nam kỳ thuộc địa; còn Hồ Tá Bang chuyển sang giữ chức Tổng Thủ bổn quản lý tiền bạc, tài sản của công ty. Tại đại hội thường niên năm 1921, ông lại được chọn cử làm Tổng trưởng Hội đồng quản trị cho đến năm 1936 khi Nguyễn Quý Anh ở Pháp về. Với những vị trí đảm nhiệm tại công ty, ông Hồ Tá Bang phải thường xuyên giao thiệp với các cơ quan ở xứ thuộc địa Nam kỳ, trong khi ông lại là người Trung kỳ nên thường bị họ gây khó dễ, không công nhận thẻ căn cước do các nhà chức trách Trung kỳ cấp. Để công việc được thuận lợi, cũng như để khỏi mất thời giờ và các loại phí phát sinh nên ông Hồ Tá Bang xin lấy thẻ thuế thân tại Sài Gòn. Việc này đã gây cho ông nhiều sự phiền toái, thậm chí bị chính quyền đương thời “đánh dấu hỏi” về thái độ chính trị.

Những năm 1920, để đối phó với nạn nước mắm giả do tư sản Hoa kiều khuynh đảo. Với cương vị là người lãnh đạo Liên Thành, Hồ Tá Bang đã nhờ bác sĩ Guillerm ở Viện Pasteur Sài Gòn giúp đào tạo nhân viên và hỗ trợ mở một phòng hóa nghiệm. Nhờ đó, nước mắm Liên Thành nói riêng và nước mắm Phan Thiết bảo đảm được phẩm lượng và vấn đề vệ sinh đúng theo luật định của chính quyền. Không những thế, ông luôn trăn trở, tìm hướng mở rộng thị trường nước mắm Phan Thiết ra nước ngoài. Sản phẩm của Liên Thành góp mặt tại hội chợ thuộc địa Marseille (Pháp) năm 1922 là một ví dụ. Tuy nhiên, việc quảng cáo nước mắm cho người ngoại quốc lúc bấy giờ vô hiệu quả…

Năm 1926, để đối phó với nạn lũng đoạn thị trường nước mắm của những nhà buôn Hoa kiều tại Sài Gòn – Chợ Lớn, Công ty Liên Thành đã đứng ra vận động thành lập Hội Tương tế Hàm nghiệp Bình Thuận. Tổ chức này có nhiệm vụ thu mua nước mắm của các hội viên và tìm kiếm bạn hàng tiêu thụ. Ngoài công việc riêng của công ty, Liên Thành còn tham gia điều hành Hội Tương tế Hàm nghiệp với vai trò là Phó hội trưởng. Trăm công ngàn việc như thế nên lúc bấy giờ Tổng lý Nguyễn Văn Nghị phải về Phan Thiết mời Hồ Tá Bang vào phụ giúp một tay. Nhưng thật tiếc, vì ý kiến bất đồng, thiếu tinh thần vì việc chung nên các hàm hộ dần rút khỏi Hội tương tế Hàm nghiệp; và đến cuối năm 1929 đã phải dừng hoạt động.

Sau khi ông Nguyễn Quý Anh qua đời (tháng 9/1938), Liên Thành không người quản lý nên ông Hồ Tá Bang lại trở vào Sài Gòn giữ chức Tổng trưởng cho đến năm 1941, khi con ông là Hồ Tá Khanh lên thay thế.

Sau khi thôi quản lý Liên Thành, ông Hồ Tá Bang trở về Phan Thiết sống đời thanh bạch, lấy miền thôn dã ruộng vườn làm vui. Trong bài “Vui thú điền viên” ông chia sẻ:

“Hằng ngày vác cuốc dạo điền viên

Đến bữa ngồi bàn xơi khoai bí.

Đứng ngắm lâm tuyền thấy hữu tình

Nằm chi thành thị nghe vô lý” (4).

Trước khi qua đời, ông có về quê – Kế Môn, Phong Điền (Thừa Thiên Huế) thăm bà con chòm xóm và cùng trò chuyện với bạn già Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Đình Phiên...

Không chỉ là một nhà duy tân cải cách, Hồ Tá Bang còn sáng tác văn học, tiêu biểu có bài “Tế thủ tiền lỗ văn” (Văn tế bọn bo bo giữ tiền) đăng trên báo Lục tỉnh tân văn, số 23 ngày 23/4/1908. Qua những sáng tác đó, hậu thế có thể biết được phần nào con người và cuộc đời của ông đối với quê hương, đất nước.

Tư cách và đức độ của ông được nhân dân và sĩ phu kính trọng. Sinh thời cụ Phan Bội Châu vì quý mến nên có thơ đề tặng:

“Mùi lan tiếng khánh sẵn ngồi trong

Khắp mặt rồi càng thỏa tấm lòng

Đất há Bắc Nam chia lối chạy

Trời ư mưa gió thảy chung tình

Mình đầy giáp trụ trong tâm trạng

Bạn hỡi, đàn reo dưới nguyệt cung

Sẵn nhịp cánh hồng bay Lục Tỉnh

Bài thơ phơi ruột với hai ông” (5).

Do tuổi cao sức yếu, ngày mùng 2/3 năm Quý Mùi (6/4/1943) ông Hồ Tá Bang tạ thế tại Phan Thiết, hưởng thọ 68 tuổi, an táng tại khu đất gia tộc - cây số 13 thuộc xã Hàm Kiệm, huyện Hàm Thuận Nam ngày nay.

Khi ông mất, chính cụ Huỳnh Thúc Kháng là người đã soạn văn bia cho ông, trong đó có đoạn: “Dinh nghiệp hội Liên Thành lâu gần bốn chục năm, công Cụ kinh doanh sắp đặt rất nhiều. Một điều hiếm có là bình sinh không ưa giao du phiếm, nhưng đã gặp người vừa lòng thì kết bạn đến bạc đầu, trước sau không hề hai lời hứa hẹn. Than ôi! Ít lắm!”.

Tạm kết

Ông Hồ Tá Bang tuy xuất thân là “người nhà nước”, tức làm việc cho chính quyền thực dân Pháp, nhưng với lòng yêu nước thương nòi, ông đã cùng các chí sĩ duy tân ở Bình Thuận dốc lòng, dốc sức giúp đồng bào ta phát triển kinh tế, giáo dục. Đó là những cơ sở hỗ trợ cho phong trào cách mạng trên đường duy tân cứu nước. Cuộc đời và sự nghiệp của ông Hồ Tá Bang đúng là:

“Sống làm nô lệ, sống như chết

Chết có tinh thần, chết tựa sinh”.

Chú thích:

(1) Hồ Tá Khanh. “Thông sử Công ty Liên Thành”. Paris: 1984.

(2) Nguyễn Hiệt Chi làm Thông phán thư ký, Hồ Tá Bang làm Ký lục, Nguyễn Hiệt Chi làm Giáo thọ, còn Ngô Văn Nhượng giữ chức Đề lại.

(3) Bình Thuận cuối tuần, số ra ngày 2/4 và 9/4/2021.

(4) Dẫn theo Nguyễn Q. Thắng. “Phong trào Duy tân – Các khuôn mặt tiêu biểu”. Văn hóa thông tin: 2006.

(5) Nguyên tác chữ Hán được Hồ Tá Bang dịch sang Quốc ngữ, sau này ông Hồ Tá Khanh đưa vào sách “Thông sử Công ty Liên Thành”.

ĐỖ THÀNH DANH