
Đại biểu Nguyễn Hữu Thông – Phó Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Thuận thảo luận tại hội trường sáng 29/5
Về việc quy định lãi suất cho vay đặc biệt là 0%/năm (sửa đổi khoản 1 Điều 193), đại biểu đánh giá đây là một chính sách hỗ trợ mạnh mẽ, thể hiện rõ vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong việc hỗ trợ các tổ chức tín dụng đang trong tình trạng đặc biệt khó khăn, nhằm giữ vững an toàn của hệ thống tài chính – ngân hàng. Tuy nhiên, quy định mức lãi suất 0%/năm mà không gắn với điều kiện áp dụng cụ thể có thể dẫn tới lạm dụng chính sách, tạo ra rủi ro, làm sai lệch môi trường cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng và tăng áp lực lên ngân sách quốc gia. Quy định này cũng có khả năng mâu thuẫn với nguyên tắc thị trường, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng nguồn lực nhà nước nếu không có cơ chế kiểm soát. Đại biểu đề nghị cần quy định cụ thể rằng: “Lãi suất 0% chỉ áp dụng cho tổ chức tín dụng thuộc diện kiểm soát đặc biệt, tái cơ cấu bắt buộc hoặc có ảnh hưởng hệ thống đến sự ổn định tài chính quốc gia”. Đồng thời, bổ sung cơ chế giám sát, công khai và đánh giá hiệu quả việc sử dụng nguồn vay đặc biệt này.
Về quyền thu giữ tài sản bảo đảm (Điều 198a), đại biểu nhận định việc luật hóa cơ chế thu giữ tài sản bảo đảm của tổ chức tín dụng là điểm mới tích cực, góp phần tháo gỡ các vướng mắc lớn trong xử lý tài sản bảo đảm, giảm tỷ lệ nợ xấu và nâng cao khả năng thu hồi nợ. Tuy nhiên, cần cân nhắc bởi việc cho phép tổ chức tín dụng tự thu giữ tài sản bảo đảm mà không có quyết định của tòa án trong một số trường hợp có thể xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp của công dân được quy định tại Điều 32 và Điều 53 của Hiến pháp cũng như nguyên tắc tôn trọng quyền tài sản trong Bộ luật Dân sự. Quy định hiện nay cũng chưa làm rõ cơ chế bảo vệ quyền lợi của bên bảo đảm khi có khiếu nại hoặc tranh chấp phát sinh; chưa quy định rõ khả năng tạm hoãn hoặc hủy việc thu giữ trong trường hợp có dấu hiệu sai phạm hoặc đang tranh chấp quyền sở hữu. Ngoài ra, khoản 5 Điều 198a quy định đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã tham gia chứng kiến và ký biên bản thu giữ tài sản bảo đảm trong trường hợp bên bảo đảm không hợp tác hoặc không có mặt. Đại biểu cho rằng quy định này chưa phù hợp với Luật Tổ chức chính quyền địa phương, vì luật không giao trách nhiệm này cho cấp xã và cán bộ cấp xã cũng không có thẩm quyền cưỡng chế dân sự, dễ dẫn đến rủi ro pháp lý trong thực tiễn thi hành. Do đó, đại biểu kiến nghị chỉ nên cho phép thu giữ tài sản bảo đảm trong các trường hợp bên bảo đảm có thỏa thuận rõ ràng trong hợp đồng, tài sản không bị tranh chấp và đang trong diện hợp pháp thu giữ; đồng thời cần quy định cụ thể cơ chế giám sát và quyền khiếu nại của bên bảo đảm.
Về kê biên tài sản đang là tài sản bảo đảm (Điều 198b), đại biểu cho rằng việc xác định thứ tự ưu tiên giữa nghĩa vụ tín dụng và nghĩa vụ thi hành án theo bản án dân sự là hợp lý. Tuy nhiên, điều này có thể phát sinh mâu thuẫn trong thực tế thi hành án nếu không xác định rõ hiệu lực của hợp đồng bảo đảm và thời điểm phát sinh quyền ưu tiên. Đại biểu đề nghị bổ sung quy định về nguyên tắc xác định hiệu lực ưu tiên của hợp đồng bảo đảm và cơ chế phối hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự và tổ chức tín dụng để đảm bảo xử lý minh bạch, tránh tranh chấp.
Về hoàn trả tài sản bảo đảm là tang vật, vật chứng (Điều 198c), đại biểu đánh giá đây là bước tiến quan trọng nhằm tháo gỡ tình trạng nhiều tài sản bảo đảm bị “treo” do liên quan đến vụ án hình sự hoặc xử phạt vi phạm hành chính, gây đình trệ quá trình xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính và Bộ luật Tố tụng hình sự, việc xử lý tang vật là quyền của cơ quan tiến hành tố tụng, không chịu sự chi phối của bên thứ ba; bên cạnh đó, dự thảo chưa quy định thời hạn cụ thể để hoàn trả tài sản sau khi đủ điều kiện, dễ dẫn đến trì hoãn, thiếu trách nhiệm. Đại biểu đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo rà soát kỹ quy định trên, đảm bảo tính thống nhất, chặt chẽ, có tính khả thi cao.