Theo dõi trên

Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 4: Hành trình tiêu thụ tro, xỉ

24/11/2021, 12:56

Bài 2: Thị trường tiêu thụ tro, xỉ  

Gia cố bãi xỉ tại Trung tâm điện lực Vĩnh Tân.

Tính đến cuối năm 2020, tổng lượng tro xỉ lưu tại bãi chứa của các NMNĐ than còn khoảng 47,65 triệu tấn; tổng lượng tro xỉ nhiệt điện đã tiêu thụ trên cả nước khoảng 44,5 triệu tấn, tương đương với 42% tổng lượng phát thải qua các năm. Thực tế cho thấy, tro xỉ được sử dụng nhiều nhất là lĩnh vực làm phụ gia khoáng cho xi măng, ước khoảng 24 triệu tấn, chiếm 70%; sản xuất gạch đất sét nung và gạch không nung ước khoảng 4 triệu tấn, chiếm 12%; phụ gia cho sản xuất bê tông tươi, bê tông cho các công trình thủy lợi, công trình giao thông và công trình xây dựng dân dụng ước khoảng 3 triệu tấn, chiếm 8%; làm vật liệu san lấp, đắp đường giao thông các loại khoảng 3,5 triệu tấn, chiếm 9%.

Hiện nay, EVN đang quản lý vận hành 14 NMNĐ than. Trung bình hàng năm, các nhà máy này tiêu thụ khoảng 40 triệu tấn than, đồng thời phát sinh khoảng 8 - 10 triệu tấn tro xỉ. Trong các năm qua, với nhiều nỗ lực từ phía Tập đoàn Điện lực và các NMNĐ, tỷ lệ tiêu thụ tro, xỉ các năm sau liên tiếp cao hơn năm trước. Năm 2020, dù ảnh hưởng của dịch COVID- 19, tỷ lệ tiêu thụ tro, xỉ của EVN vẫn đạt tới hơn 83,4% khối lượng phát sinh, cao hơn nhiều so với tỷ lệ tiêu thụ trong năm 2019 (68,85%).

    Cùng với đó, EVN và các đơn vị cũng đã nỗ lực tìm kiếm nhiều giải pháp nhằm xử lý, tiêu thụ tro xỉ tại các nhà máy nhiệt điện. Tỷ lệ tiêu thụ, tái sử dụng tro xỉ tại các NMNĐ thuộc EVN đã tăng dần qua các năm. EVN đặt mục tiêu, tới năm 2022, tiêu thụ 100% toàn bộ lượng tro xỉ nhiệt điện phát sinh và đến năm 2025 tiêu thụ toàn bộ lượng tro xỉ tồn trữ tại các bãi chứa tro xỉ.

 Báo cáo 8 tháng năm 2021 của EVN cho thấy khối lượng tro xỉ phát sinh của các nhà máy nhiệt điện thuộc EVN khoảng 4,8 triệu tấn; khối lượng tiêu thụ đạt 4,6 triệu tấn (tỷ lệ tiêu thụ đạt 95%). Hiện tại, 100% nhà máy, công ty nhiệt điện thuộc EVN đã xây dựng và triển khai Đề án tiêu thụ tro xỉ, thạch cao; đồng thời thực hiện đăng kí hợp chuẩn, hợp quy, giấy chứng nhận tro xỉ đủ điều kiện để tái sử dụng vào các mục đích cụ thể như làm phụ gia xi măng, bê tông, vật liệu san lấp, nền đường ô tô...

 Tuy nhiên, tình hình tiêu thụ tương quan giữa hai khu vực có sự chênh lệch. Tại khu vực phía Bắc, công tác tiêu thụ tro xỉ tại các NMNĐ của EVN rất khả quan, nhưng tình hình tại các tỉnh phía Nam khó khăn hơn.

 Nguyên nhân là do vị trí các nhà máy này cách xa các thị trường tiêu thụ, gây khó khăn trong việc vận chuyển, chi phí đội lên cao. Cùng đó, thói quen sử dụng vật liệu xây dựng làm từ tro, xỉ nhiệt điện chưa được người dân địa phương và khu vực phía Nam đón nhận, ảnh hưởng đến khả năng tiêu thụ vật liệu làm từ tro xỉ.

   Tại khu vực phía Bắc, công tác tiêu thụ tro xỉ tại các nhà máy nhiệt điện của EVN có nhiều thuận lợi hơn. Đơn cử như tại Công ty Nhiệt điện Thái Bình không chỉ với tro bay, mà tỷ lệ tiêu thụ xỉ, thạch cao trong các năm qua luôn đạt mức tối đa 100%. Tro, xỉ của nhà máy được các cơ quan có thẩm quyền đánh giá đạt tiêu chuẩn để tái sử dụng, do đó việc tiêu thụ khá thuận lợi.

 Trước đây, Công ty Nhiệt điện Mông Dương (Quảng Ninh) luôn có lượng xỉ thải tồn với khối lượng lớn. Từ khi triển khai đề án đến nay, công ty đã cơ bản giải quyết được vấn đề này, đối với lượng xỉ đáy, đơn vị đã bán được cho một số đơn vị thu mua, còn với xỉ tro bay được vận chuyển đi san lấp tại một số dự án tại TP.Cẩm Phả và một số tỉnh lân cận.

 Cùng đó, Công ty Nhiệt điện Hải Phòng cũng đã tiến hành lập đề án để xử lý lượng tro xỉ còn tồn đọng tại bãi thải xỉ, dự kiến sau năm 2021 cơ bản lượng tro xỉ tại hồ sẽ được khai thác hết bảo đảm an toàn cho việc vận hành nhà máy.

 Đặc biệt, tại Công ty Nhiệt điện Nghi Sơn 1 cùng với việc áp dụng các giải pháp cải thiện chất lượng tro, xỉ đầu ra trong quá trình sản xuất điện, nhà máy sản xuất ở đây luôn tích cực phối hợp với các đơn vị tiêu thụ để xử lý hết lượng tro, xỉ, thạch cao phát sinh hàng ngày. Mặc dù, tình hình dịch Covid- 19 ảnh hưởng lớn đến sản xuất kinh doanh nhưng hoạt động tiêu thụ tro, xỉ, thạch cao vẫn duy trì 100%.

 Ngược lại, tại Công ty Nhiệt điện Duyên Hải (tỉnh Trà Vinh), tỷ lệ tiêu thụ tro xỉ khoảng 85% lượng phát sinh trong 10 tháng năm 2021. Nguyên nhân do vị trí các nhà máy ở đây cách xa các thị trường tiêu thụ, gây khó khăn trong việc vận chuyển, chi phí đội lên cao. Cùng đó, thói quen sử dụng vật liệu xây dựng làm từ tro, xỉ nhiệt điện chưa được người dân địa phương, khu vực phía Nam đón nhận, ảnh hưởng đến khả năng tiêu thụ vật liệu làm từ tro xỉ.

 Đây cũng là khó khăn mà các nhà máy nhiệt điện trong TTĐL Vĩnh Tân phải đối mặt. Hàng năm, các nhà máy tại đây thải ra khoảng 3,76 triệu tấn tro bay nên cần một bãi chứa tro xỉ có diện tích lớn để chứa được hết lượng tro xỉ này.

 Theo báo cáo của Sở Tài nguyên & Môi trường Bình Thuận, bãi xỉ Vĩnh Tân 1 có diện tích khoảng 59,5 ha, hiện tại, khối lượng tro, xỉ đã lưu chứa tại bãi xỉ Vĩnh Tân 1 khoảng 3,2 triệu tấn (chiếm khoảng 43% dung tích lưu chứa của bãi xỉ).

 Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 2 và Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 4 hiện sử dụng chung bãi thải tro, xỉ, diện tích hơn 38 ha, sức chứa khoảng 9,3 triệu m3, tương đương với 5 năm vận hành của 2 nhà máy. Khối lượng tro xỉ chưa tiêu thụ được phải đưa ra lưu trữ tại bãi xỉ dùng chung của hai nhà máy còn chiếm tỉ trọng lớn (tới 70%). Hiện lượng tro xỉ tại bãi xỉ của các nhà máy đã đạt 90% dung lượng thiết kế và dự kiến sẽ đầy trong khoảng tháng 6/2022. Trong trường hợp đó, NMNĐ Vĩnh Tân 2 và Vĩnh Tân 4 sẽ phải ngừng vận hành do không có chỗ chứa tro xỉ phát sinh.

 Tình hình này đang là bài toán khó với lãnh đạo hai nhà máy. Bởi lẽ, mỗi năm chỉ riêng Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 2 thải ra khoảng 1,2 triệu m3. Ngay như Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 4 và 4 mở rộng, với công nghệ hiện đại bậc nhất hiện nay, sử dụng than betum và supbetum có hàm lượng tro thấp (bằng 1/3 lượng tro của than antrasite của 2 nhà máy Vĩnh Tân 1 và Vĩnh Tân 2), song lượng tro xỉ thải ra vẫn là một bài toán lớn đối với lãnh đạo nhà máy do thị trường tiêu thụ hạn chế.

 Theo Quyết định số 452/QĐ-TTg ngày 12/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ quy định: đến năm 2020, chỉ cấp diện tích bãi thải xỉ cho các nhà máy nhiệt điện với dung lượng chứa tối đa trong 2 năm sản xuất. Vì vậy, viêc xin thêm mặt bằng để xây dựng bãi thải xỉ mới sẽ không thể thực hiện được.

 Để giải quyết khó khăn này, trước đây, NMNĐ Vĩnh Tân 2 cũng đã xin UBND tỉnh Bình Thuận cho phép sử dụng 300.000 tấn tro xỉ san lấp mặt bằng khu vực mỏ đá Hang Cò để giảm tải bãi chứa. Bộ Xây dựng đã có công văn hướng dẫn một số nội dung liên quan đến phương án trên, riêng Bộ Tài nguyên & Môi trường  chưa có văn bản hướng dẫn.

 Năm 2019, sau khi Bộ Giao thông Vận tải có văn bản về việc sử dụng tro xỉ than làm vật liệu đắp nền các dự án xây dựng giao thông ở Bình Thuận, trong đó có việc xây dựng đường cao tốc, đã khiến các chủ NMNĐ vui mừng vì có thể giải quyết lượng tro xỉ tồn đọng. Tuy nhiên, dù đã có đầy đủ các chứng nhận hợp quy, hợp chuẩn, nhưng Ban Quản lý dự án Thăng Long sau khi chỉ đạo đơn vị tư vấn nghiên cứu, áp dụng thì có văn bản đề nghị chưa sử dụng tro xỉ làm vật liệu đắp nền đường cao tốc.

Trước đó, UBND Bình Thuận cũng đã cấp phép, giao mặt bằng cho một đơn vị làm nhà máy sản xuất vật liệu xây dựng từ tro xỉ than, nhưng sau đó, doanh nghiệp này mới chỉ xây dựng nhà xưởng rồi ngưng luôn.

 Tro xỉ than sau khi được các cơ quan của Trung ương đánh giá, chứng nhận hợp quy, hợp chuẩn để làm vật liệu san lấp, làm nền đường ô tô, phụ gia khoáng cho bê tông.., nhưng đến nay nhiều đơn vị vẫn chưa mặn mà với nguồn nguyên liệu được cho không này là thực trạng đáng buồn!

 Trước đây, tại buổi làm việc với đoàn công tác của Quốc hội Khóa XIV, ông Huỳnh Thanh Cảnh, nguyên Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Thuận, cho rằng, tro xỉ than khó tiêu thụ một phần là do người dân còn có tâm lý e dè, chưa tin tưởng vào sự an toàn khi sử dụng.

Hiện tại, Trung tâm điện lực Vĩnh Tân đã đề nghị UBND Bình Thuận kiến nghị Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành liên quan chỉ đạo các tỉnh lân cận với Bình Thuận hỗ trợ, khuyến khích sử dụng tro xỉ tại đã được hợp chuẩn, hợp quy làm vật liệu xây dựng. Có như vậy mới có thể góp phần giảm tải lượng tro xỉ đang tồn ngày càng nhiều tại các bãi chứa.

V. Trí- B. Minh- T. Khoa



(0) Bình luận
Bài liên quan
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO
Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 4: Hành trình tiêu thụ tro, xỉ