1.Thích ứng nhanh, linh hoạt với tình hình dịch Covid-19, đảm bảo tốt nhất quyền lợi người tham gia, thụ hưởng chính sách.
Năm 2021, BHXH Việt Nam giải quyết khoảng 95.762 hồ sơ hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH hàng tháng; kịp thời chi trả 3,2 triệu người hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng, 6.698.566 lượt người hưởng chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe; 626.397 người hưởng các chế độ bảo hiểm thất nghiệp (BHTN); 118,721 triệu lượt người khám chữa bệnh (KCB) bảo hiểm y tế (BHYT) nội trú và ngoại trú. Đồng thời, đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, chi trả gộp 2 tháng lương hưu, chi trả lương hưu tại nhà, linh hoạt trong chuyển tuyến KCB BHYT…
2. Với sự chủ động tham mưu, BHXH Việt Nam nhanh chóng triển khai thành công các chính sách hỗ trợ người lao động, người sử dụng lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch.
Đó là gói hỗ trợ trên 30.000 tỷ đồng từ quỹ BHTN theo Nghị quyết 116 của Chính phủ, trực tiếp bằng tiền đến tận tay người lao động (NLĐ), người sử dụng lao động (NSDLĐ).
Với Nghị quyết số 68, sau 7 ngày, BHXH Việt Nam đã hoàn thành việc điều chỉnh giảm mức đóng vào quỹ bảo hiểm tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp cho 375 ngàn đơn vị, tương ứng 11,238 triệu lao động với số tiền khoảng 4.322 tỷ đồng; đã giải quyết cho 842 đơn vị (với 159.885 lao động) tạm dừng đóng quỹ hưu trí và tử tuất với số tiền trên 1.111 tỷ đồng tại 57 tỉnh, thành phố…
Với Nghị quyết số 116, sau 5 ngày, BHXH Việt Nam đã hoàn thành việc thông báo điều chỉnh mức đóng (giảm từ 1% xuống 0%) vào quỹ BHTN cho 363,6 nghìn đơn vị sử dụng lao động, tương ứng 9,676 triệu lao động với số tiền khoảng 7.595 tỷ đồng; đã chi trả chế độ hỗ trợ cho 12.941.196 lao động với số tiền khoảng 30,73 ngàn tỷ đồng.
3. Số người tham gia BHXH tự nguyện tiếp tục tăng trong bối cảnh khó khăn chung của đất nước.
Tính đến hết ngày 31/12/2021, số người tham gia BHXH hơn 16,5 triệu người, tăng 2,1% so với năm 2020, đạt 33,75% lực lượng lao động trong độ tuổi. Số người tham gia BHTN gần 13,4 triệu người, tăng 0,4% so với năm 2020, đạt 27,33% lực lượng lao động trong độ tuổi. Số người tham gia BHYT hơn 88,8 triệu người, tăng 0,9% so với năm 2020, đạt tỷ lệ bao phủ 91,01% dân số.
Năm 2021, hơn 1,4 triệu người tham gia BHXH tự nguyện, tăng 28% so với cùng kỳ năm 2020, đạt 2,94% lực lượng lao động trong độ tuổi là nông dân và lao động khu vực phi chính thức, cao hơn 1,94% so với chỉ tiêu được giao tại Nghị quyết 28.
4. Bước chuyển mình quan trọng trong chuyển đổi số của ngành BHXH Việt Nam.
Ngành BHXH Việt Nam hoàn thiện kho cơ sở dữ liệu (CSDL) của hơn 98 triệu dân, là nền tảng CSDL quốc gia về bảo hiểm, liên thông, chia sẻ dữ liệu với các bộ, ngành. Đặc biệt, ứng dụng “VssID - BHXH số” mang lại thành công bước đầu trong công tác chuyển đổi số của ngành. Đến hết ngày 31/12/2021, cả nước có gần 25 triệu người cài đặt, sử dụng để quản lý, kiểm soát quá trình tham gia, thụ hưởng chính sách, thực hiện các dịch vụ công; hơn 500 ngàn lượt sử dụng hình ảnh thẻ BHYT trên ứng dụng để đi KCB trên toàn quốc. Với thành quả này, 4 năm liên tiếp từ 2017 - 2020, BHXH Việt Nam được đánh giá là cơ quan triển khai hiệu quả và được xếp hạng 2 trong khối Bộ, ngành; đứng thứ nhất bảng xếp hạng Chính phủ điện tử khối cơ quan thuộc Chính phủ.
5. Chính phủ ban hành Nghị định quy định cơ sở dữ liệu quốc gia về Bảo hiểm.
Theo Nghị định số 43, cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm, BHXH Việt Nam được giao là cơ quan chủ quản cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm; gồm 9 nhóm thông tin, trong đó các nhóm thông tin về BHXH, BHYT, BHTN là những dữ liệu gốc. Đây là cơ sở dữ liệu của Chính phủ được xây dựng thống nhất trên toàn quốc, dùng chung cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm cung cấp chính xác, kịp thời thông tin về bảo hiểm phục vụ công tác quản lý nhà nước, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, yêu cầu chính đáng của các cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Trước những diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19, nhiều tỉnh, thành phố có nhu cầu khai thác dữ liệu, xác thực thông tin người tham gia, người hưởng các chế độ BHXH, BHYT, BHTN, ngành BHXH Việt Nam đã chủ động thực hiện cung cấp kịp thời các thông tin này để các địa phương sử dụng vào công tác lập danh sách xét nghiệm; danh sách tiêm chủng vắc xin; xác định thông tin bệnh nền; theo dõi, truy vết nhanh bệnh nhân F0, khoanh vùng tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, đơn vị SDLĐ... để phục vụ cho công tác phòng, chống dịch hiệu quả.
6. Đổi mới, sáng tạo, tăng cường thanh tra, kiểm tra theo phương thức điện tử, thích ứng linh hoạt với tình hình dịch Covid-19.
Thích ứng linh hoạt với tình hình dịch Covid-19, BHXH Việt Nam được tập trung đổi mới từ phương pháp, cách thức thanh tra kiểm tra (TTKT) kết hợp giữa thanh tra truyền thống với thanh tra theo phương thức điện tử, tăng hiệu quả, chất lượng, giảm nhân lực, thời gian TTKT (giảm khoảng 48%, từ 20 giờ xuống còn 10,5 giờ). TTKT theo phương thức điện tử đã xây dựng 121 dấu hiệu nhận diện hành vi vi phạm trong thực hiện chính sách, pháp luật BHXH, BHTN, BHYT; kết nối với hơn 12.500 cơ sở KCB kiểm tra, giám sát chi KCB BHYT trên hệ thống giám định BHYT điện tử; từ chối thanh toán, giảm chi quỹ BHYT (hết tháng 11/2021 là 626,62 tỷ đồng).
7. Hoàn thành vượt chỉ tiêu Chính phủ giao về chi trả chế độ BHXH, BHTN qua phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt.
Năm 2021, dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp, để đảm bảo an toàn cho người tham gia khi nhận các chế độ BHXH, BHTN, BHXH Việt Nam đã triển khai nhiều giải pháp để đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt. Kết quả có hơn 57% số người hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH, trợ cấp thất nghiệp nhận qua tài khoản cá nhân ở khu vực đô thị, tăng 9% so với năm 2020 (tăng 28% so với năm 2019 là thời điểm bắt đầu thực hiện Nghị quyết 02 của Chính phủ), vượt 7% chỉ tiêu Thủ tướng Chính phủ giao.
Đặc biệt, ngành BHXH Việt Nam đẩy mạnh việc thanh toán không dùng tiền mặt khi triển khai gói hỗ trợ từ quỹ BHTN theo Nghị quyết 116. Điều này không chỉ giúp ngành chi trả kịp thời, chính xác, công khai, minh bạch các khoản hỗ trợ mà còn đảm bảo an toàn cho sức khỏe người dân do không phải nhận hỗ trợ theo hình thức trực tiếp, hạn chế đi lại, góp phần hiệu quả cho công tác phòng chống dịch Covid-19.
8. Đổi mới nội dung, hình thức truyền thông, thích ứng linh hoạt trong bối cảnh dịch Covid-19.
Công tác truyền thông của ngành tiếp tục được đổi mới về nội dung, hình thức, phương pháp, thích ứng linh hoạt trong bối cảnh giãn cách xã hội. Bên cạnh hình thức truyền thông trực tiếp, truyền thông mạng xã hội, truyền thông trực tuyến được đẩy mạnh. Năm 2021 có hơn 72.000 hội nghị truyền thông trực tiếp với trên 1,5 triệu lượt người tham dự; hơn 2.600 hội nghị truyền thông trực tuyến được tổ chức, hàng trăm ngàn sản phẩm truyền thông được chia sẻ trên môi trường internet và mạng xã hội.
Truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng tiếp tục được tăng cường, nhất là trên sóng truyền hình, sóng phát thanh vào các khung giờ “vàng” thu hút nhiều khán, thính giả. Trung bình mỗi ngày có khoảng 90 tin, bài, phóng sự trên các báo để lan tỏa chính sách BHXH, BHYT đến người dân. Từ đó góp phần mở rộng diện bao phủ BHXH, BHYT, nhất là BHXH tự nguyện, BHYT hộ gia đình.
9. Dịch vụ hỗ trợ, chăm sóc người tham gia, thụ hưởng được đẩy mạnh.
Với mục tiêu lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ, ngành BHXH Việt Nam vận hành một hệ thống chăm sóc khách hàng, kịp thời tiếp nhận, giải đáp, hỗ trợ, tư vấn cho các cá nhân, tổ chức tham gia BHXH, BHYT, BHTN chuyển đổi tác phong từ hành chính sang dịch vụ, từ chăm sóc thụ động sang chăm sóc chủ động. Kết quả ngành hỗ trợ, tư vấn 406.922 lượt (tăng 26%) qua hệ thống tổng đài; trả lời 7.914 câu hỏi trên Cổng Thông tin điện tử, Fanpage của BHXH Việt Nam (tăng gấp 10 lần). Đặc biệt, năm 2021, ngành BHXH Việt Nam đã ban hành quy trình thực hiện các hoạt động tư vấn, hỗ trợ cho tổ chức, cá nhân trong tham gia, thụ hưởng chế độ. Hoạt động của hệ thống chăm sóc khách hàng của ngành được các chuyên gia trong nước và quốc tế đánh giá cao. Trong bối cảnh dịch bệnh phức tạp, công tác chăm sóc khách hàng của ngành BHXH Việt Nam đã có nhiều hoạt động đồng hành cùng người dân và doanh nghiệp cả về tinh thần và vật chất, góp phần nâng cao vị thế của ngành BHXH Việt Nam trong cộng đồng xã hội.
10. Tăng cường các hoạt động đối ngoại, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực an sinh xã hội.
Năm 2021, BHXH Việt Nam tiếp tục mở rộng, đẩy mạnh, phát triển các hoạt động hợp tác song phương, đa phương; đã từng bước khẳng định vị thế, hình ảnh của BHXH Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy, thành viên tích cực và trách nhiệm của Hiệp hội An sinh xã hội ASEAN (ASSA), Hiệp hội An sinh xã hội Quốc tế (ISSA) và trên 50 nước, tổ chức quốc tế.
Trong bối cảnh bị ảnh hưởng dịch Covid-19, thích ứng hiệu quả với định hướng đối ngoại, hội nhập quốc tế trên nền tảng số, BHXH Việt Nam tiếp tục duy trì, tăng cường các hoạt động hợp tác quốc tế trực tuyến; tổ chức thành công Hội nghị trực tuyến ASSA 38 tại điểm cầu Việt Nam; tạo sự đồng thuận và gắn kết giữa các doanh nghiệp FDI với BHXH Việt Nam trong chấp hành pháp luật về BHXH, BHYT.