Theo dõi trên

Người Bình Thuận xưa được thờ ở Văn miếu Trấn Biên

02/08/2019, 10:57 - Lượt đọc: 3,288

 Vài nét về văn miếu và Văn miếu Trấn Biên

BT- Văn Thánh miếu, gọi tắt là Văn Thánh, Văn miếu (), là nơi thờ vị “thánh văn”, được hậu thế tôn vinh “Vạn thế sư biểu” (người thầy của muôn đời): Khổng Tử. Trong một vài từ điển tiếng Việt, văn miếu được giải thích là miếu thờ đức Khổng Tử ở tỉnh và các nhân vật tiêu biểu về văn hóa, giáo dục trong vùng.

Văn miếu được xây dựng đầu tiên ở nước ta vào năm 1070, đời vua Lý Thánh Tông. Trải qua hơn 700 năm, khi mở cõi phương Nam, các vua chúa triều Nguyễn cho xây dựng văn miếu tại kinh đô Huế và các vùng đất học nổi tiếng trong cả nước. Chỉ riêng xứ Đàng Trong, tức từ Huế trở vào Nam bộ, theo thời gian, văn miếu các vùng, tỉnh được xây dựng như: Văn miếu Trấn Biên (1715), Văn miếu Huế(1) (1808), Văn miếu Vĩnh Long(2) (1864)… Theo Đại Nam nhất thống chí, Văn miếu Bình Thuận, còn gọi là Văn miếu Khải Từ, được xây dựng vào năm Minh Mạng thứ 7 (Bính Tuất 1826) ở phía Tây tỉnh thành, địa phận 2 thôn Bình Thủy, Lạc Sơn (nay thuộc huyện Bắc Bình, nhưng rất đáng tiếc không còn dấu vết xưa nào lưu lại).

Văn miếu Trấn Biên - văn miếu đầu tiên ở phương Nam do Chúa Nguyễn Phúc Chu cử Trấn thủ dinh Trấn Biên Nguyễn Phàn Long và Ký lục Phạm Khánh Đức khởi công. Đây là sự nối tiếp Văn miếu Thăng Long; là nơi hội tụ tinh thần hiếu học, giá trị văn hóa của vùng đất Nam bộ, nhằm bảo tồn, phát huy và tôn vinh giá trị văn hóa, giáo dục của dân tộc Việt Nam. Năm 1861, Pháp xâm lược miền Đông Nam kỳ, tàn phá các văn miếu, trong đó có Văn miếu Trấn Biên, thực hiện chính sách ngu dân, hòng tiêu diệt tinh thần yêu nước của các sĩ phu Nam kỳ. Tuy bị san bằng trên thực địa, nhưng qua các bộ sử như: Gia Định thành thông chí (Thông chí) của Trịnh Hoài Đức, Đại Nam nhất thống chí (Nhất thống chí) của Quốc sử Quán triều Nguyễn, đã giúp hậu thế hình dung hình dáng, kết cấu công trình văn hóa này. 

Người Bình Thuận xưa được thờ ở Văn miếu Trấn Biên

BT- Dựa vào thư tịch cổ, tỉnh Đồng Nai đã phục dựng lại Văn miếu Trấn Biên trên chính khu đất xưa rộng 2 ha, với nhiều công trình. Nhà bái đường được thiết kế theo kiểu 3 gian, 2 chái, là nơi thờ tự các vị danh nhân Việt Nam.

Gian trung tâm thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà tư tưởng lớn của thời đại, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Gian bên trái thờ các danh nhân: Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Nguyễn Du.

Gian bên phải thờ các nhân vật xuất thân vùng đất phương Nam: Võ Trường Toản, Đặng Đức Thuật, Gia Định tam gia (Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tĩnh, Lê Quang Định), Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Đình Chiểu; trong đó, Đặng Đức Thuật là người Bình Thuận.

                
Nhà Bái đường Văn miếu Trấn Biên.

Theo sách 290 năm Văn miếu Trấn Biên, cụ Đặng Đức Thuật là danh nhân văn hóa nổi tiếng đất phương Nam, là “thầy của các bậc thầy” nhưng ngoài Đại Nam liệt truyện Tiền biên (Tiền biên) của Quốc sử Quán triều Nguyễn thì không còn thư tịch cổ nào ghi chép về cụ. Tiền biên chép rằng, “Đặng Đức Thuật tự là Cửu Tư, không biết người xứ sở nào. Lúc trẻ tuổi Đức Thuật thông minh, học rộng, thơ hay, lại càng trội về sử. Trước kia tránh “loạn” Tây Sơn, làm nhà ở trong núi An Phước thuộc Bình Thuận, ở ẩn dạy học. Người học gọi là Đặng gia sử phái. Thế tổ Cao Hoàng đế, năm thứ 9 Mậu Thân (1788), lấy lại được Định (tức Gia Định - TG), Đức Thuật đến yết kiến. Thấy là bậc lão thành, túc học, vua yêu và trọng, cho làm Hàn lâm viện Thị giảng Gián nghị. Thuật tính ngay thẳng, ngang bướng, gặp việc dám nói. Thấy hình phạt đánh roi nặng quá, xin trừ bỏ đi. Vua không nghe. Thuật nói lắp, ra nói với mọi người rằng: “nói không chịu nghe thì gián gián nghị nghị làm gì”. Bèn bỏ quan mà đi. Vua sai Giám quân Tống Phúc Đạm đuổi theo, mời về. Sau theo đi đánh giặc, chết ở dọc đường. Trước kia Thuật ở Gia Định, lũ Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tĩnh, Lê Quang Định và Nguyễn Hương (cũng là người Bình Thuận, làm chức Hàn lâm viện thị thư dưới triều Nguyễn - TG) nghe tiếng ông thơ hay đều đến tôn làm thầy. Sự học làm thơ ở Gia Định thịnh lên là bắt đầu từ đấy”.

Quá trình tìm kiếm tư liệu, ngoài Tiền biên, còn có Nhất thống chí, phần nhân vật chí Bình Thuận chép về cụ. “Đặng Đức Thuật, không rõ quê quán, ngụ ở huyện Yên Phước dạy học trò. Năm Mậu Thân đời đầu trung hưng đại binh thu phục Gia Định, Thuật cầm gậy đến yết kiến, được trao chức giám nghị. Thuật tính thẳng thắn, gặp việc dám nói, vua thường ưu đãi. Sau tòng chinh chết ở giữa đường; khi Thuật ở Gia Định, bọn Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tĩnh, Lê Quang Định và Nguyễn Hương nghe tiếng về thơ, đều thờ làm thầy, thi học ở Gia Định thịnh lên là bắt đầu từ đấy”.

                
Tượng cụ Đặng Đức Thuật trong vườn tượng    danh nhân Văn miếu Trấn Biên.

Ngoài ra, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (Từ điển) của Nguyễn Q. Thắng, cũng viết về cụ. “Đặng Đức Thuật, danh thần, tự Cửu Tư, ông thông sử học, được học giả đương thời xưng tặng là “Đặng gia sử phái”. Khi Tây Sơn dấy binh, ông cất nhà tại Phước Sơn, thuộc tỉnh Bình Thuận ở ẩn. Năm Mậu Thân 1788, ông vào Gia Định gặp Nguyễn Ánh, được dùng làm gián nghị, thị giảng Viện Hàn lâm. Tính ông cương trực, một khi can gián mà chúa Nguyễn không nghe, ông nói: “Lời nói không công hiệu, thế thì gián nghị nổi gì”. Bèn bỏ ra đi, chúa Nguyễn phải cho người theo triệu hồi, ông mới trở lại phục vụ. Sau, ông mất trong quân, được truy tặng Thượng thư, Thị giảng học sĩ”.

Khi cụ Đặng Đức Thuật mất, Trịnh Hoài Đức làm bài thơ Khốc Đặng Cửu Tư tiên sinh (Khóc Đặng Cửu Tư tiên sinh): “Tử Mỹ sinh bình lũy khảm kha/ Hữu tài vô mệnh nại chi hà/ Tuyền đài đàn trúc đăng văn bá/ Chiên tọa phong xuy khấp tửu ma/ Chương sớ dĩ thù đương thế vọng/ Thi thư tằng chính hậu nhân ngoa/ Quy sơn bất tận tình trung khúc/ Dạ dạ phần tiền khởi nộ ba”. (Dịch nghĩa: Tử Mỹ(3) bình sinh nhiều phen trắc trở/ Có tài mà mệnh không ra gì, biết làm sao/ Dưới suối vàng, đàn dựng ông đáng lên ngôi văn bá/ Đệm bằng lòng ngồi, gió thổi khóc ma rượu/ Bản sớ dâng đã đáp ứng được lòng trông đợi của người đời/ Thi thư từng đính chính lại sai lầm của người đời sau/ Về núi nhưng khúc nhạc tình cảm vẫn không dứt/ Đêm đêm trước mộ còn dấy lên làn sóng giận dữ). Cuối bài thơ, Trịnh Hoài Đức chú thích: “Hồi mới trung hưng, tiên sinh dâng Trung hưng thập sách, được chiếu bổ dụng chức Nội các học sĩ, nhưng trái ý với người đương quyền, lui về làm bài Quy sơn thập vịnh, lấy thơ rượu làm vui. Ông mất, mộ táng ở bờ biển trấn thành Bình Thuận”.

 Về quê quán cụ Đặng Đức Thuật

Qua 3 tư liệu trích dẫn cho thấy thông tin về quê quán cụ Đặng Đức Thuật còn mơ hồ. Đó là, không biết người xứ sở nào (Tiền biên), không rõ quê quán (Nhất thống chí) hoặc không nói đến quê quán (Từ điển); chỉ biết cụ sống ẩn cư, dạy học tại vùng đất thuộc tỉnh Bình Thuận: núi An Phước (Tiền biên), huyện Yên Phước (Nhất thống chí), Phước Sơn (Từ điển). Riêng chú thích bài thơ Khóc Đặng Cửu Tư tiên sinh của Trịnh Hoài Đức cho biết, khi cụ mất, mộ chôn ở bờ biển trấn thành Bình Thuận.

Như vậy, có 3 địa danh liên quan đến nơi tiền nhân ở ẩn: An Phước, Yên Phước và Phước Sơn. 3 địa danh này cùng là một, hay khác nhau?. Khi xưa thuộc tỉnh Bình Thuận, nhưng hiện nay thuộc nơi nào?.

Tra cứu Đồng Khánh Địa dư chí, Nhất thống chí thì Yên Phước là một huyện thuộc phủ Ninh Thuận, tỉnh Bình Thuận. Nhất thống chí chép, “huyện Yên Phước, phía đông đến biển, giáp địa giới huyện Vĩnh Xương, tỉnh Khánh Hòa, phía tây đến địa giới huyện Tuy Phong, phía nam đến biển, phía bắc đến địa giới huyện Vĩnh Xương...”. Còn tên An Phước là do húy kỵ từ Yên mà đọc thành An; và tên Phước Sơn có thể do Từ điển biên soạn ở thế kỷ XX, nên tác giả viết theo địa danh hiện nay cho dễ hiểu. Huyện Yên Phước, phủ Ninh Thuận, tỉnh Bình Thuận xưa gần tương ứng với huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận hiện nay.

 Vĩ thanh

Cụ Đặng Đức Thuật không rõ quê quán, sống tại vùng núi Yên Phước, phủ Ninh Thuận, tỉnh Bình Thuận xưa (nay là huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận). Khi cụ mất, mộ phần táng tại bờ biển trấn thành Bình Thuận. Tác phẩm của cụ gồm Trung Hưng thập sách, Quy sơn thập vịnh (rất tiếc đến nay giới nghiên cứu chưa sưu tầm được). Cụ là một nhân tài xuất chúng, được các văn nhân, danh sĩ cùng thời như Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tĩnh, Lê Quang Định, Nguyễn Hương suy tôn làm thầy. Đó là niềm tự hào của vùng đất Bình Thuận xưa, Bình Thuận và Ninh Thuận hôm nay. Thiết nghĩ, cụ Đặng Đức Thuật xứng đáng được đặt tên cho đường phố, hoặc ngôi trường tại Bình Thuận, Ninh Thuận.

Hà Ngân

 (1): Văn miếu và Quốc Tử giám của triều Nguyễn. (2): Do đốc học Nguyễn Thông và Kinh lược sứ Nam kỳ Phan Thanh Giản chủ trương xây dựng, trước khi tỵ địa ra Bình Thuận. (3): Tên tự của Đỗ Phủ, nhà thơ lớn thời kỳ nhà Đường (Trung Quốc).



(0) Bình luận
Bài liên quan
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO
Người Bình Thuận xưa được thờ ở Văn miếu Trấn Biên