Mùa gặt trên cánh đồng Tánh Linh. Ảnh: Nam Hưng |
Lúa hồi ấy nông dân cấy, sạ là giống lúa mùa, từ gieo cấy đến khi lúa chín kéo dài 6 tháng, mỗi năm chỉ làm một vụ. Trước khi thu hoạch là cả thời gian dài hồi hộp, đợi chờ. Ngày làm tháng ăn mà! Rủi ro bị thiên tai mất mùa, thì năm ấy coi như đói dài đến giáp hạt. Được mùa lúa là được cả mùa vui, là bội thu tiếng cười của người nông dân.
Mùa gặt đến, dưới cánh đồng lúa chín vàng ươm, những bà, những chị hái liềm soàn soạt lia nhanh, từng nạm lúa trĩu hạt được các bà, các chị trải đầy mặt ruộng. Tiếng nói, cười chen nhau xua tan hết mệt nhọc. Cánh đàn ông lo gom lúa, bó lúa. Lũ trẻ thì lần theo từng vũng nước sền sệt dưới chân gốc rạ mò cá, mò cua. Chiều xuống, từng đoàn người kĩu kịt gánh lúa trên vai, những bông lúa hạt no tròn vàng mẫy đong đưa theo nhịp bước.
Lúa sau khi gánh về nhà được chất thành đống, đêm xuống, trăng lên, lúa được rải ra sân cho trâu đạp. Trên cái sân gạch rộng hàng trăm mét vuông, người dắt trâu, người cầm vật dụng theo sau hứng phân, người giũ rạ, người gom lúa... Cứ thế trâu với người mải miết công viêc cho đến khi trăng lên chót vót.
Lúa đạp xong, các bà, các chị đợi gió lên đem giê cho sạch rơm rạ, hạt lép, khi gió yếu họ dùng những chiếc quạt đan bằng tre to đùng quạt thay gió. Lúa sạch rồi mang ra sân phơi, phơi đủ nắng cho vào sập, vào bồ để cất.
Và tất nhiên bữa cơm mới ở từng gia đình là không thể thiếu. Lúa mới được các bà, các chị cho vào cối xay hoặc giã cho đến khi bong tróc hết lớp vỏ lộ ra hạt gạo trắng ngần. Gạo mới được cho vào chiếc nồi đồng để nấu, khi gạo chín thành cơm, nồi cơm mới tỏa mùi thơm rạo rực. Những chén cơm đầu tiên của mùa gặt được đơm cúng tạ đất đai, tổ tiên đã phù hộ, sau đó mới đến bữa ăn sum họp của gia đình. Có lẽ đây là bữa ăn ngon nhất trong năm. Mỗi miếng cơm nhai đều như dính theo tiếng cười, niềm vui được mùa.
Rơm cũng là những sản phẩm quý với người nông dân. Rơm dùng để đun nấu, dùng làm thức ăn cho trâu bò, dùng để che chắn rau màu cho khỏi bị mưa trôi, dập... Rơm được nông dân phơi khô rồi xây thành cây rơm cao nghều, cần đến đâu rút dùng đến đó. Và những cây rơm này cũng chính là ngôi nhà mơ ước của tuổi thơ xưa.
Ngoài đồng, khi mùa gặt đã qua, chân ruộng đã khô, người nông dân bắt đầu gom rác đốt đồng. Khói đồng màu trắng cuộn bay trong gió, mang theo mùi khen khét, nồng nồng rơm rạ riêng có của làng quê nông nghiệp.
Huy Khiêm và nhiều nơi khác, mùa gặt bây giờ đã khác lắm ngày xưa. Khoa học tiến bộ, giống lúa mới ngắn ngày, một năm gieo sạ được mấy vụ. Chuyện gặt hái không còn vất vả. Cảnh gánh lúa về nhà cho trâu đạp, hoặc cảnh đàn ông đứng phơi mình dưới nắng đập từng bó lúa, có còn chăng cũng rất hiếm. Liềm hái nhà nông bây giờ rảnh rỗi đi nhiều. Các bà, các chị cũng không phải một sương hai nắng đồng cạn, đồng sâu. Thay vì gặt tay bây giờ đã có máy gặt, những cánh đồng nhỏ, hẹp thì người ta dùng máy phát cỏ chế thành máy gặt năng xuất gấp mấy chục lần gặt tay, đập lúa đã có máy tuốt. Những cánh đồng lớn người ta thuê cả dàn máy liên hợp vừa gặt, vừa tuốt, vừa sàng sảy, vừa vô bao, người nông dân chỉ việc thuê xe chở về nhà phơi là xong. Rơm rạ có người đến tận chân ruộng để mua. Giá rơm cũng cao ngất, tiền bán rơm dư sức để trả tiên thuê máy móc. Bữa cơm mới trong gia đình thành ra ít còn ai chú trọng. Nói chung người nông dân ngày nay so với trước đây sướng hơn nhiều.
Lang thang miền ký ức về mùa gặt xa xưa, chợt nghe thèm quá mùi cơm mới “nàng hương”, “nàng út” mà đồng quê Huy Khiêm một thời tạo nên.
NGÔ VĂN TUẤN