Ảnh: Đ.H |
Hình ảnh chiếc thúng câu muôn thuở nằm phơi trên bờ biển đã đi vào tâm khảm của người dân ở đây mang nét đan thanh của những vòng tròn tựa vành trăng rằm… không thôi tiếng sóng dạt dào. Trước đây không lâu, thuyền thúng đúng nghĩa là thúng chai bởi đan bằng nan tre, phủ lớp dầu rái trộn bột chai rừng với phân bò khô chống được nước thấm vào. Nhiều ngư phủ nhớ lại mà rùng mình, khoảng thập niên 80, 90 của thế kỷ trước, với những chiếc thúng chai xếp lớp trên con thuyền câu ra biển mỗi đêm, rồi được bỏ xuống để tự bơi theo con sóng bập bềnh mà rải thẻ làm mồi vớt mực. Một thân một thúng với ngọn đèn măng-xông sáng lên nhưng đâu có dễ dàng, lúc gặp cơn gió chướng thổi chao nghiêng, đèn tắt lại phải lụi hụi bơm dầu tiếp tục. Có hôm sóng lớn đánh dạt xa thuyền trôi lạc, thuyền chủ phải quay về báo tin là mất tích. Có người may mắn được cứu sống từ vùng biển nơi khác xa hàng trăm hải lý, rồi cũng phải bám nghề. Cho nên thúng chai còn là hình tượng chén cơm chan đầy nước mắt của người dân xứ biển quê xưa.
Những năm sau này, thuyền thúng cũng bằng chất liệu nan tre, phải là loại tre mỡ và vành thúng bện bằng loại tre đực (thân có nhiều mắc gai). Nhưng không sử dụng lớp phủ bột chai mà thay bằng vải nhựa có sức bền như composite. Ngày nay ít có thuyền thúng phải chèo bằng tay vì mỗi thuyền đều gắn máy cưỡi sóng thênh thang. Những lão ngư thì lại cho rằng thúng xưa tuy vậy mà đằm hơn, có độ bền, dù sóng nhóc đẩy lên không dễ gì bị lật như thuyền lợp mủ nhựa bây giờ. Tuổi thọ của thuyền thúng chỉ 3 - 4 năm nhưng chỉ phải đôi ba triệu đồng cũng vừa với khả năng của những gia đình nghèo sống bằng nghề bờ. Anh Lê Văn Nam, sống ở Thôn Cam Bình, xã Tân Phước (La Gi), theo cha mẹ từ Quảng Trị vào đây, lật đất trồng mì và chăm khoảnh ruộng nhỏ, thấy quanh quẩn chừng ấy làm sao nuôi được bầy con 5 đứa thiết tha cái sự học. Anh mày mò và là người duy nhất làm ra những chiếc thuyền thúng kết hợp với cách làm truyền thống, lớp bọc bằng mủ nhựa mà giá không cao. Đến nay đã mười năm, trên miếng đất gần một mẫu của gia đình, có ngôi biệt thự nguy nga trên 3 tỷ đồng và cạnh nhà vẫn là một xưởng sản xuất thuyền thúng, sực nức mùi keo giữ bền cho vỏ thúng. Nguồn cá biển gần bờ cũng có hạn, số lượng thuyền thúng được các nơi trong thị xã đặt hàng cũng có phần giảm. Nhưng các con anh học hành đến nơi đến chốn, kinh tế gia đình cũng đủ để gọi bằng lòng.
Việc làm ăn cũng như nghề thúng chai hay thúng mủ, cũng có lúc phải đổi thay là chuyện đương nhiên. Từ chỗ là bến đậu của thuyền thúng rồi chuyển dần là chợ cá bờ nhưng chỉ nhóm cùng buổi thuyền thúng lên bờ. Bán vội bán vàng cho người thu gom, cá vụn thì cho hàng xóm diễn ra vài giờ là chợ tan. Ở bãi Cam Bình khách du lịch có thể mua ngay những con cá, tôm còn tươi sống trên rổ và đưa vào quán nhờ chế biến nướng, luộc hay nấu canh… đã trở thành hương vị đặc sản ở đây từ nhiều năm nay. Rồi đây, một khi các dự án du lịch phát triển thì các bến thuyền thúng này phải chuyển đi sẽ là điều khó khăn do sự gắn bó tập quán lâu đời của nghề biển địa phương.
PHAN CHÍNH