Các đình, chùa… ngoài việc đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của người dân và tham quan du lịch của du khách, còn là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa có bản sắc chân thiện mỹ qua các câu đối Hán – Nôm được lưu truyền từ hàng trăm năm nay. Xin chọn giới thiệu ngẫu nhiên mỗi câu đối của những đình, chùa sau:

Phần một - Câu đối các đình, vạn ở Phan Thiết
Đình, vạn là nơi thờ Thành hoàng bổn cảnh, thần Nam Hải…các vị Tiền, hậu hiền có công mở đất lập làng. Các câu đối ở đình vạn ngoài mục đích tôn vinh công đức các bậc thần thánh, tiền hiền còn có ý khuyến khích người dân giữ gìn nề nếp thuần phong đạo đức và noi gương tiền nhân mà xây dựng xóm làng, đất nước ngày thêm giàu mạnh.
1- Đình làng Đức Thắng (Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia):
Đình làng Đức Thắng là ngôi cổ đình lớn nhất Phan Thiết và cả tỉnh Bình Thuận hiện nay. Câu đối chữ Hán trên cổng Tam quan đình:
德 者 福 基 千 載 肇 培 延 地 脉 / 勝 如 僊 景 重 樓 峻 嶺 疎 人 觀
Phiên âm: Đức giả phúc cơ thiên tải triệu bồi diên địa mạch
Thắng như tiên cảnh trọng lâu tuấn lĩnh sơ nhân quan
Tạm dịch: Người hiền đức có phước dày, giúp đắp bồi ngàn năm thêm mạch đất.
Được ngự lầu cao tiên cảnh mà mở khai cái thấy biết cho đời.
Câu đối có 2 chữ đầu hai vế ghép lại thành tên đình làng Đức Thắng, có ý ca ngợi những tiền hiền có công đức mở đất, lập làng khi mất được ngự mãi trong niềm kính ngưỡng của mọi người.
Tuy nhiên qua câu đối chúng tôi nhận thấy phảng phất câu chuyện bi tráng về sự hy sinh của ông Tiền hiền Trần Chất người đã dám thay mặt dân làng Đức Thắng chặn đầu ngựa Tả quân Lê Văn Duyệt trên đường ra Huế để kêu xin mở cầu lập chợ cho dân. Không may, vị thượng quan nổi giận chưa kịp suy xét đã sai chém đầu tại chỗ. Sau rõ chuyện, Lê Văn Duyệt đã tâu xin vua phong cho ông Trần Chất là tiền hiền của làng Đức Thắng.
Khí văn có phần ngậm ngùi của câu đối và câu chuyện thương tâm của vị tiền hiền giúp người thời nay cảm thông thêm cho thân phận người dân trong thời kỳ quân chủ với quyền uy tuyệt đối của vua chúa trước đây.
2- Đình làng Tú Luông (Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia):
Câu đối chữ Hán trong gian thờ Tiền hiền đình Tú Luông:
順 德 者 昌 使 眾 畏 員 如 眾 愛 / 心 尚 經 倫 鄉 善 仕 國 之 善 仕
Phiên âm: Thuận đức giả xương sử chúng úy viên như chúng ái
Tâm thượng kinh luân hương thiện sĩ quốc chi thiện sĩ.
Tạm dịch: Viên chức thuận đức thì việc tốt, khiến dân chúng tuân phục và yêu quý
Lòng người trọng luân thường đạo lý thì làng, nước sinh kẻ sĩ hiền lương.
Khi người Việt bắt đầu định cư tại Phan Thiết thì Tú Luông là một làng sầm uất nhờ có cửa biển do sông Cà Ty thời đó chảy ngang ra biển. Rồi một trận động đất (chưa rõ năm nào) làm cửa biển Tú Luông bị lấp, dòng Cà Ty chuyển hướng chảy vòng qua các làng Đức Nghĩa, Đức Thắng ra biển như hiện nay. Làng Tú Luông mất cửa biển, kinh tế suy vi dân bỏ đi tứ tán. Bấy giờ có vị hương chủ tên Nguyễn Công Chất “Lấy lòng yêu dân làm gốc/ Giữ tâm cần mẫn thanh liêm” bỏ công của kêu gọi hương hào hưởng ứng giúp đỡ dân làng khôi phục lại cuộc sống. (Những tư liệu quý này được ghi lại bằng Hán tự trên bảng Khuê Chí lập năm 1889 còn lưu tại đình Tú Luông. Bản Khuê Chí do ông Lê Văn Bảy (Bảy Văn) người phường Đức Long dịch Việt sau năm 1975.
Đình làng Tú Luông khắc ghi câu đối trên trong nhà thờ Tiền hiền có lẽ để tôn vinh vị hương chủ, đồng thời khuyến khích cả người trên kẻ dưới biết tôn trọng luân thường đạo lý. Bởi quan chức mà có đạo đức, được dân tin yêu tuân phục thì xã hội mới ổn định, làng nước sẽ sinh nhiều kẻ sĩ hiền lương giúp ích cho đời.
3- Vạn Thủy Tú (Di sản lịch sử - văn hóa cấp quốc gia):
Câu đối chữ Hán trong hậu điện Vạn Thủy Tú :
前 功 追 念 無 忘 本 / 後 世 尊 承 必 有 興
Phiên âm: Tiền công truy niệm vô vong bản / Hậu thế tôn thừa tất hữu hưng.
Tạm dịch: Ơn trước nhớ ghi không mất gốc / Đời sau kính nối sẽ thêm hưng.
Vạn Thủy Tú Phan Thiết là ngôi vạn thờ thần Nam Hải được tạo lập sớm từ năm 1762, rất nổi tiếng với bộ xương cá Ông dài 22 mét đang được trưng bày.
Vạn Thủy Tú có hơn chục câu đối hầu hết tôn vinh và nhớ ơn thần thánh đã phù hộ giúp đỡ người dân có cuộc sống an cư lạc nghiệp. Tuy nhiên câu đối trên đây lại có ý tôn vinh những tiền nhân có công khai cơ lập làng dựng vạn. Đáng quan tâm là câu đối có ý nhắc nhở người đời nay ngoài ghi nhớ công ơn còn phải biết noi gương người trước để làm cho cuộc sống ngày càng thêm hưng thịnh.
4-Đình làng Khánh Thiện (Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh):
Câu đối chữ Hán trong gian thờ Tiền hiền đình Khánh Thiện:
慶 亭 培 新 仰 望 先 靈 扶 社 稷 / 善 祀 依 舊 伏 惟 後 往 護 人 民
Phiên âm: Khánh đình bồi tân ngưỡng vọng tiên linh phù xã tắc
Thiện tự y cựu phục duy hậu vãng hộ nhân dân.
Tạm dịch: Mừng đình mới sửa, ngửa trông anh linh người trước phù xã tắc
Nếp thiện còn nguyên, cúi mong trí lự người sau giúp nhân dân.
Thuở mới tạo lập, đình làng Khánh Thiện Mũi Né là một ngôi đình lớn, bề thế gắn với tên tuổi vợ chồng ông tiền hiền Huỳnh Công Mao và các tiền nhân tạo dựng vào khoảng đầu thế kỷ 19. Năm 1946 do nghi ngờ đây là nơi ẩn náu và hoạt động của lực lượng cách mạng nên thực dân Pháp phóng hỏa thiêu rụi hoàn toàn. Đến năm 1958, ngôi đình mới được phục dựng ở vị trí cách ngôi đình cũ khoảng 2km về hướng Đông Nam, trong khuôn viên khu đất rộng hơn 3.000 m2, nay thuộc khu phố 4, phường Mũi Né, TP. Phan Thiết.
Câu đối có hai chữ ghép lại thành tên đình, có lẽ mới được chế tác khoảng năm 1958 khi ngôi đình được phục dựng lại: Đình dù mới dựng lại nhưng nề nếp đạo đức tốt đẹp của cộng đồng làng xóm còn nguyên, nói lên sức sống của bản sắc văn hóa dân tộc là trường tồn, các kẻ địch không dễ gì phá hoại được.
Phần hai - Câu đối các chùa ở Phan Thiết
TP. Phan Thiết có khoảng 40 ngôi chùa, có chùa được tạo dựng rất sớm từ nửa đầu thế kỷ 18 như chùa Phật Quang, chùa Liên Trì, chùa Ngự Tứ Bửu Sơn…
Các câu đối ở cổng chùa ngoài việc thể hiện nét trang trí truyền thống nơi tôn nghiêm, còn mang ý nghĩa giới thiệu thiền môn và truyền bá phật pháp cho mọi người.
1- Chùa Xuân Thọ (ở số 119 đường Nguyễn Thông, phường Phú Hài TP.Phan Thiết):
Câu đối chữ Hán ở cổng Tam quan chùa:
佛 覺 世 间 無 常 苦 無 我 弘 化 度 生 三 法 印 / 道 成 体 性 現 恒 樂 我 淨 涅 槃 寂 境 四 莊 嚴
Phiên âm: Phật giác thế gian vô thường, khổ, vô ngã hoằng hóa độ sinh Tam pháp ấn
Đạo thành thể tính hiện hằng, lạc, ngã, tịnh niết bàn tịch cảnh tứ trang nghiêm.
Tạm dịch: Phật dạy Tam pháp ấn để cứu độ chúng sanh gồm vô thường, khổ, vô ngã
Người tu thành đạo tâm hiện hằng, lạc, ngã, tịnh là bốn cảnh trí niết bàn.
Câu đối đề cập đến những giáo pháp căn bản của đạo Phật. Thế gian khổ vì cuộc đời luôn thay đổi (Vô thường); thân người không phải là ta, là của ta (Vô ngã). Mục đích tu hành của đạo Phật là thoát khổ, đạt đến niết bàn gồm 4 cảnh trí, hay bốn trạng thái tâm là: Hằng (không thay đổi ); Lạc (an vui ); Ngã (trở về bản thể); Tịnh (trong sạch). Niết bàn ở ngay trong tâm được “hằng, lạc, ngã, tịnh” của người đạt đạo chứ không phải là một cảnh cõi xa xôi nào.
2- Chùa Bửu Quang (trên đại lộ Lê Duẩn, phường Bình Hưng, TP. Phan Thiết):
Câu đối chữ Hán ở cổng Tam quan chùa:
寶 樹 種 榮 平 地 重 圓 羅 漢 果 / 光 輝 慧 極 宗 風 永 振 法 王 成
Phiên âm: Bảo (Bửu) thụ chủng vinh bình địa trọng viên La Hán quả
Quang huy tuệ cực tông phong vĩnh chấn pháp vương thành.
Tạm dịch: Cây quý vun trồng nơi bình địa, chúa vườn có La Hán quả
Tuệ giác cực đại sáng soi đường, tông mãi thịnh chánh pháp thành.
Câu đối có hai chữ đầu ghép lại thành tên chùa, có ý đề cao Thiền tông, là pháp môn do tổ Bồ- Đề- Đạt- Ma truyền bá từ thế kỷ thứ 6 ở Trung Hoa. Khác với mục đích đạt quả vị A-La-Hán theo cách tu truyền thống của Phật giáo nguyên thủy, Thiền tông chủ trương “Kiến tánh thành Phật. Do đó đòi hỏi người tu phải đủ căn duyên, và nỗ lực cao dưới sự dẫn dắt của một minh sư mới mong thành tựu được chánh pháp.
Ở Việt Nam, khi các chúa Nguyễn mở đất Đàng Trong, có ngài Liễu Quán người Việt đắc pháp Thiền tông phái Lâm Tế do các cao tăng Trung Hoa truyền sang. Vì vậy ở Bình Thuận dòng thiền này cũng được phát triển, tiêu biểu có ngài Thông Ân Hữu Đức, tổ khai sơn Linh sơn trường thọ tự (chùa núi Tà Cú Bình Thuận).
3- Chùa Giác Hoa (ở số 55 đường Thủ Khoa Huân, phường Phú Thủy, TP. Phan Thiết):
Câu đối chữ quốc ngữ ở cổng Tam quan chùa:
Chó sủa gâu gâu cũng tức thoại đầu nên quán chiếu
Chim kêu chíu chít đâu không công án hãy trừng tâm.
Đây là một câu đối chữ Việt độc đáo có chen thêm vài từ Hán Việt để bàn về cách tu hành:
“Thoại đầu”: là những câu hỏi không có lời đáp (ví dụ: Sanh từ đâu đến, chết đi về đâu ?).
“Công án”: cũng là những vấn đề không thể giải quyết (ví dụ: Tiếng vỗ của một bàn tay).
“Quán chiếu”: là nhận biết rõ ràng. “Trừng tâm”: là gạn lọc làm cho tâm được yên.
Thiền thoại đầu hay thiền công án do các tổ Thiền tông Trung Hoa truyền bá. Vị thầy sẽ giao cho đệ tử một thoại đầu hay công án, khiến người tu phải luôn tập trung tâm trí cao độ nghiền ngẫm mà không được suy nghĩ buông lung phóng dật. Cách hành thiền này chỉ dành cho những người có thượng căn nên ít người đạt đến.
Chúng tôi nghĩ có lẽ câu đối của chùa Giác Hoa trên đây có ý hướng người tu trở về cách tu hành nguyên thủy, tập quán chiếu theo lời Phật Thích Ca dạy:
“… Này các tỳ kheo hãy trú, quán thân trên thân, quán thọ trên các cảm thọ, quán tâm trên tâm, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời…”
(Trong kinh SN 47.46 bản dịch của thầy Thích Minh Châu )
Như vậy đối tượng để quán chiếu theo lời Phật dạy là mọi cái đang xảy ra trên thân, thọ, tâm, pháp của người tu. Do đó các tiếng chim kêu, chó sủa là các pháp đang xảy ra trong thực tại hiện tiền, người tu cũng cần quán chiếu trong sự tỉnh giác, chánh niệm để đạt đến mục đích trừng tâm, đạt đạo.
Hiện nay giới trẻ và các cư sĩ tại gia có khuynh hướng thực tập quán chiếu theo các pháp thiền nguyên thủy như Vipassana hay Tứ niệm xứ để cân bằng thân tâm, giúp giảm bớt căng thẳng trong cuộc sống lao động và học tập ngày càng áp lực. Xã hội giờ không thiếu thông tin nên đạo Phật trở nên dễ hiểu hơn và mọi người có thể áp dụng thực hành để đem lại lợi ích thiết thực trong đời sống.
Phần kết:
Các câu đối Hán – Nôm của các đình chùa trên đây đều đạt chuẩn về phép đối, có nhiều ý nghĩa, có giá trị cả về nội dung và hình thức văn chương, nên đã truyền cảm được những nhận thức rõ ràng về đạo lý ở đời và giáo pháp của nhà Phật cho người đọc.
Tất nhiên đây chỉ là phần rất nhỏ so với số lượng câu chữ thực tế chưa đo đếm được ở các đình chùa, dinh vạn hiện nay.
Qua đó có thể nói vùng đất Phan Thiết đã có nhiều thế hệ tiền nhân giỏi cả về làm ăn và chữ nghĩa, nên đã xây dựng được nhiều cơ sở đình, chùa… và để lại cho đời một kho tàng di sản văn hóa phi vật thể gắn liền với bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt nên cần được trân trọng, giữ gìn.