Bắt dông không dễ
Hẳn những người tuổi trung niên trở về trước đang và đã từng sống những khu vực triền cát đỏ, dọc ven biển phía đông Bình Thuận, sẽ không thể nào quên những ký ức về con dông.
Sau nhiều lần lỡ hẹn, một ngày đầu tháng 6, những “người năm cũ” chúng tôi đã thực hiện chuyến đi rừng săn dông, để hoài niệm về ký ức tuổi thơ.
.jpg)
Nói tiếng “đi săn” cho oách, chứ thật ra là đi bắt dông rừng bằng chà len (cuốc) một dụng cụ làm nông, để đào sâu theo hang và “bắt đùn” đến nơi ở của dông. “Dông giờ hiếm lắm, mới rớt ít mưa, nên đất còn rất cứng. Để đào chắc có, khỏi tốn sức phải chọn hang đùn (hang bịt miệng) chứ hay cũ hay “hang chao” phần lớn đã bị đặt bẫy, rủi ro không có rất cao”, Tèo Lý – một người dân sống bằng nghề rừng quá quen với rừng Hồng Phú, xã Hàm Đức, huyện Hàm Thuận Bắc, Bình Thuận nói trước khi chúng tôi lên đường.
Khu vực rừng tràm thuộc xã Hàm Đức giờ đây đặt dưới sự quản lý của Ban quản lý rừng phòng hộ Hồng Phú. Nơi đây có dải cát đỏ kéo dài đến chiến khu Hồng Phong, Hòa Thắng (Bắc Bình) và xã Thiện Nghiệp (TP. Phan Thiết) - nơi trước đây cũng nổi tiếng về con dông. Hiện nay hầu hết đất được đơn vị chủ rừng trồng keo lá tràm bạt ngàn để lấy gỗ, điều này đã tạo thuận lợi cho con dông và nhiều động vật khác như thỏ, gà rừng hay các loài chim... hồi sinh.
Nói tiếng hồi sinh, chứ để tìm được hang dông đùn, chao không dễ chút nào, nhất là đối với những người “tay ngang”, xa rời ruộng rẫy lâu năm như chúng tôi. Sau một hồi theo dấu vết dông bò, anh Hậu Cao, một thành viên trong nhóm cuối cùng cũng tìm được hang, mà theo anh chắc chắn 100% có dông bên trong. Xác định có dông bên trong chỉ mới là thành công bước đầu, bởi để đến nơi trú ngụ cuối cùng của dông thì không dễ chút nào. Để đào đúng hướng, người bắt dông phải sử dụng một nhánh cây nhỏ, có độ dẻo. Sau khi đào mở miệng hang xong, thì thọc sâu nhánh cây vào để định hướng đường đi của hang dông rồi tiến hành đào tiếp theo hướng cây đã định.
Cái nóng oi bức đầu hè không dễ chịu chút nào đối với những người lâu không quen đi rừng như chúng tôi, chứ chưa nói đến đào hang bắt dông. Thế nhưng đối với những người ở rừng quanh năm như anh Dũng, Hậu Cao hay Tèo Lý, thì dường như họ đã quá quen với công việc hàng ngày nên có sức bền và sự dẻo dai.
Sau hơn 30 phút chuyền tay nhau đào theo vết cây dẫn đường, hang dông được mở rộng ngang tầm hơn 50cm, có độ sâu hơn 1,5 m, là đến công đoạn quan trọng nhất, đó là bắt đùn theo dông. “Không phải đào đến chỗ là có dông ngay, mà phải tìm dấu vết của dông. Bởi quá trình đào, dông biết gặp nguy hiểm, sẽ đùn đất để chạy trốn liền. Phải có kinh nghiệm, chứ không là mất dấu, thì công sức đào ngay từ đầu đến đây sẽ đổ sông, đổ biển”, Tèo Lý có dáng người nhỏ, ốm nên nhận nhiệm vụ xuống hang bắt đùn chia sẻ.
Và đúng như Tèo Lý nói, để bắt được dông khi đã đào tới nơi thật không dễ dàng chút nào. Nó đòi hỏi người bắt đùn phải phán đoán chính xác hướng dông đùn, phải nhanh tay theo dấu vết, nếu không sẽ mất dấu ngay. Sau hơn 10 phút loay hoay, cuối cùng con dông đầu tiên trong hành trình săn dông cũng nằm gọn trong tay Tèo Lý. Sau một buổi đào dông dưới cái nắng hanh khô của tháng 6, nhóm chúng tôi cũng chỉ đào được gần 10 con dông, khi mọi người đều kiệt sức.

Quá khứ khốn khó và con dông
Khác với con dông hương sống ở những khu vực cát pha vùng Hàm Tân, Hàm Thuận Nam, Tánh Linh có kích thước nhỏ hơn và có đặc tính đào hang trú ngụ cạn hơn. Con dông ở rừng cát đỏ là nguyên bản của dông nuôi ở các hộ gia đình hiện nay, có kích thước, trọng lượng lớn hơn.

Quá khứ của dông cũng có những thăng trầm như những người sống bám vào đất nơi trú ngụ của dông. Những năm thuộc thập niên 80, 90 của thế kỷ trước, đối với những người trồng hoa màu, hay dưa lấy hạt trên đất rẫy của dải đất đỏ ven biển Bình Thuận thì không lạ gì con dông. Bởi dông là nguồn thực phẩm, là nguồn kinh tế chính của không ít hộ gia đình sống ở rẫy và với nghề đào dông.

Thịt dông rừng đầu mùa mưa thường rất béo và thơm ngon.
Đối với những người trồng dưa lấy hạt, mùng 5 tháng 5 (âm lịch) là thời điểm bẻ bông dưa (hái trái lứa đầu tiên). Đây cũng là thời điểm con dông có thịt thơm và béo nhất, bởi sau những cơn mưa đầu tiên, thức ăn động thực vật dồi dào, nên dông thường lên ăn giao phối và kết trứng. Dịp này người nông dân cũng đào dông bằm thịt để đổ bánh xèo cúng ông bà hay ăn. “Trời mưa phùn tháng 5, ngồi quanh lò bánh xèo bột gạo đổ với thịt dông, thì không còn gì bằng”, Hậu Cao ngước ánh nhìn về phía xa, hồi ức về những ngày sống ở rẫy với thịt dông đổ bánh xèo. Trong ký ức của những vị cao niên, mùng 5/5 ngày trước thì năm nào cũng có người chết ngạt, vì do đào dông sụp hầm. Đó cũng là ký ức buồn khó quên đối với những người làm rẫy trồng dưa hay sống bằng nghề bắt dông.
Giờ đây việc đào, đánh bẫy dông rừng còn rất ít người theo nghề, bởi số lượng dông tự nhiên ít dần, có chăng cũng chỉ những người sống bằng nghề rừng. Còn với những người như chúng tôi, săn dông rừng vào thời điểm đầu mùa mưa, như tìm lại ký ức của tuổi thơ, với bữa cơm đạm bạc giữa rừng, để nhớ lại một thời khốn khó.