Xác định rõ tầm quan trọng của bảo vệ môi trường, Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo về công tác bảo vệ môi trường. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng có nhiều nội dung mới về bảo vệ môi trường, từ đó đặt ra yêu cầu phải sớm thể chế các quan điểm này để triển khai vào thực tiễn.
Phát triển bền vững về bảo vệ môi trường
Theo đó, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng thể hiện quan điểm coi trọng và nhấn mạnh công tác bảo vệ môi trường, đặt ra mục tiêu cụ thể về môi trường đến năm 2030 đó là: Tỷ lệ che phủ rừng ổn định ở mức 42%. Tỷ lệ xử lý và tái sử dụng nước thải ra môi trường lưu vực các sông đạt trên 70%, giảm 9% lượng phát thải khí nhà kính, 100% các cơ sở sản xuất, kinh doanh đạt quy chuẩn về môi trường, tăng diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển đạt 3 - 5% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia. Đến năm 2030, cơ bản đạt các mục tiêu phát triển bền vững về tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 100%, tỷ lệ chất thải nguy hại được tiêu hủy, xử lý đạt 98%, trong đó riêng tỷ lệ chất thải y tế được xử lý đạt 100%, tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đã đi vào hoạt động có nhà máy xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường đạt 100%, tỷ lệ tái sử dụng, tái chế chất thải rắn sinh hoạt đạt trên 65%. Đây là những mục tiêu rất quan trọng để thực hiện phát triển bền vững, thúc đẩy bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành của người dân.
Thời gian qua, tỉnh Bình Thuận đã có nhiều văn bản chỉ đạo các sở, ngành, địa phương và các cơ quan, đơn vị có liên quan tăng cường công tác bảo vệ môi trường tại các khu, cụm công nghiệp và trong hoạt động khai thác khoáng sản, các khu du lịch. Cùng với đó, tỉnh Bình Thuận còn chỉ đạo khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường tại các địa phương, kiểm soát chặt chẽ hoạt động nhập khẩu phế liệu, ngăn chặn suy thoái các hệ sinh thái, suy giảm các loài và nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường… Cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, cấp ủy, chính quyền từ tỉnh đến các địa phương đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện các giải pháp bảo vệ môi trường. Các nguồn gây ô nhiễm môi trường từng bước được kiểm soát, xử lý, các loại rác thải được thu gom, xử lý, tình trạng vứt rác thải, đổ nước thải ra môi trường có phần giảm, môi trường không khí ổn định. Bên cạnh đó, tình trạng ô nhiễm môi trường kéo dài tại một số cơ sở sản xuất đã được chấm dứt, không phát sinh điểm nóng mới hoặc cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Từ đó ý thức chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân từng bước được nâng lên. Các hoạt động, mô hình thu gom, xử lý rác thải ở cộng đồng được triển khai tích cực, có sự đồng thuận và tham gia hưởng ứng của nhân dân. Hạ tầng về bảo vệ môi trường được quan tâm đầu tư, nhất là hạ tầng đường giao thông đô thị, nông thôn, hệ thống thoát nước khu dân cư. Môi trường du lịch được cải thiện, thu hút và tạo điều kiện thuận lợi các dự án đầu tư phát triển du lịch, công tác bảo vệ môi trường tại các khu du lịch được chú trọng, nhất là khu du lịch Hàm Tiến – Mũi Né, các dự án đầu tư mới có hệ thống thu gom, xử lý nước thải, rác thải, công tác trồng, bảo vệ rừng phòng hộ ven biển được quan tâm nhằm ngăn chặn các hoạt động gây sạt lở đất, xâm nhập mặn.
Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường
Để đạt được những mục tiêu đề ra theo Văn kiện đại hội XIII của Đảng, bên cạnh việc tiếp tục kế thừa các quan điểm được ghi nhận trong các văn kiện Đại hội trước đòi hỏi các ngành, địa phương tiếp tục khẳng định vai trò chủ đạo của Nhà nước trong quản lý tài nguyên và môi trường. Coi trọng bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành. Theo đó, lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe của nhân dân là mục tiêu hàng đầu, kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái. Nâng cao chất lượng môi trường không khí, có biện pháp hạn chế ô nhiễm tiếng ồn, xử lý rác thải ở các đô thị, khu vực đông dân cư. Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng chống và giảm nhẹ thiên tai bằng việc xây dựng hệ thống và cơ chế giám sát biến đổi khí hậu, dự báo, cảnh báo thiên tai đến bảo vệ, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong lĩnh vực quản lý tài nguyên, môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Phát triển kinh tế xanh, ít chất thải, các bon thấp, giảm nguồn phát thải khí nhà kính. Gắn vấn đề bảo vệ tài nguyên, môi trường biển với bảo vệ chủ quyền quốc gia. Thực hiện tốt chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển, kết hợp chặt chẽ với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền biển, đảo, tài nguyên, môi trường biển, phòng chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn, thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao đời sống nhân dân vùng biển, đảo. Đồng thời tăng cường nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, điều tra tài nguyên, môi trường biển, xây dựng cơ sở dữ liệu số về biển, đảo, nâng cao năng lực giám sát môi trường biển, dự báo thiên tai, biến đổi khí hậu vùng biển, ven biển. Những quan điểm, chủ trương của Đảng về bảo vệ môi trường là cơ sở quan trọng để hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành, trong đó có pháp luật môi trường trong thời gian tới. Tiếp tục thể chế cụ thể, rõ ràng hơn nữa trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong bảo vệ môi trường. Cần tiếp tục thể chế hóa quan điểm phát triển bền vững vào pháp luật môi trường và các văn bản pháp lý liên quan theo hướng không chỉ hoàn thiện riêng một lĩnh vực pháp luật nào mà cần tiếp cận hoàn thiện đồng bộ pháp luật về phát triển bền vững theo nội hàm mở rộng đã được đề cập trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, với các trụ cột kinh tế - xã hội, môi trường, chính trị, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Bên cạnh trách nhiệm của Nhà nước, cần gắn với nâng cao vai trò của các cấp ủy Đảng, các nhà khoa học, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư, tổ chức, cá nhân trong hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường…